Ngày 28-01-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:41 28/01/2015
QUỶ KẾ CỦA QUỶ VƯƠNG
N2T

Có một bầy quỷ nhỏ, vì để đề cao công lao và sự nghiệp nên có ý định lấy danh lợi, tình dục, sợ hãi, chết chóc để cám dỗ một vị ẩn sĩ đạo hạnh rất cao, nhưng vẫn cứ không cám dỗ được, từng đứa một tay trắng trở về.
Ma vương biết được bèn muốn hiện ra thân thủ của mình, nên nói với bầy quỷ nhỏ ấy:
- “Những phương pháp của tụi bây quá nông cạn, tránh lui ra một bên, coi ta cám dỗ đây nè.”
Ma vương đi đến bên vị ẩn sĩ, nhẹ nhàng nói:
- “Các sư đệ của ngài đều được làm giám mục cả rồi, ngài có nghe nói thế chưa ?”
Thoáng cái, mặt mày trang nghiêm đứng đắn của vị ẩn sĩ phủ lên một lớp bóng đen của ghen ghét. Quỷ kế của ma vương đã thành công.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)

Suy tư:
Những người nội công thâm hậu mà đấu nhau thì kỵ nhất là việc phân tâm, tức là không bị chia trí khi đấu nội lực, bởi vì chỉ cần chia trí chút xíu coi như là bỏ mạng.
Có một vài linh mục học giỏi khi nghe tin bạn cùng lớp của mình làm giám mục thì nói: “Cái thằng đó mà làm giám mục à, học dở như cái gì !”; có một vài linh mục đạo hạnh rất cao, vượt thắng mọi cám dỗ của ma quỷ và thù hận của thế gian, nhưng bị chia trí bởi tội kiêu ngạo khi nghe tin một linh mục trẻ tuổi chịu chức giám mục, thế là công lao tu trì gần cả đời người bị đổ xuống sông xuống biển thật đáng tiếc...
Đối với giáo dân thì bọn quỷ nhỏ trong hỏa ngục chỉ cần dùng chiêu thức thông thường là tiền tài, danh vọng và xác thịt để cám dỗ, nhưng đối với những các tu sĩ nam nữ và linh mục thì phải đích thân quỷ vương ra tay cám dỗ và nó dùng chiêu thức ít ồn ào hơn nhưng rất hiệu quả, đó là kiêu ngạo, và nó đã thành công với một số linh mục và những người dâng mình làm tôi Chúa...
Quỷ vương thì lúc nào cũng mưu kế hơn bọn quỷ nhỏ, chúng ta hãy luôn đề phòng.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:45 28/01/2015
N2T

13. Khi tất cả đều bỏ chúng ta thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta.

(Thánh Thomas de Aquino)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”

-------------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tìm hiểu Tin Mừng thứ ba: Khía cạnh đáp ứng đối với biến cố Chúa Kitô
Vũ Van An
23:36 28/01/2015
Trong các chương trước, ta đã xem qua thần học của Thánh Luca liên quan đến biến cố Chúa Kitô. Biến cố này sẽ không đầy đủ, nếu ta không xét tới phản ứng hay đáp ứng của con người đối với biến cố ấy. Trong thần học của Thánh Luca, đáp ứng này được trình bầy dưới cái nhìn của ngài về việc làm môn đệ Chúa Giêsu (1).

I. Đáp ứng đối với sơ truyền Kitô Giáo

Ta sẽ xem sét đáp ứng này về ba phương diện, vốn là của chung các soạn giả Tân Ước: đức tin, thống hối hay hoán cải, và phép rửa.

A. Đức tin

Trong bài nói nhân cơ hội Corneliô trở lại, Thánh Phêrô đã súc tích tóm gọn quan điểm của Thánh Luca như sau: “phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:43). Tương tự như thế, Thánh Phaolô nói với viên cai ngục tại Philíppi như sau “hãy tin vào Chúa Kitô thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ” (Cv 16:31). Muốn hiểu quan niệm của Thánh Luca về đức tin, ta hãy xem cách ngài trình bầy lời giải thích dụ ngôn người gieo giống. Trong lời giải thích ấy, môn đệ được coi là hạt giống rơi vào đất tốt: “đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8:15). Như thế, đức tin bắt đầu với lắng nghe, giống thần học của Thánh Phaolô, nhưng chưa kết thúc ở đấy. Nơi Thánh Phaolô, đức tin bắt đầu với việc lắng nghe lời giảng của Chúa Kitô (rm 10:17), nhưng kết thúc ở chỗ “tùng phục” (Rm 1:5; 16:26) hay đúng hơn ở việc đích thân cam kết với Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Dù quan niệm của Thánh Phaolô không xa lạ với Thánh Luca, vì ngài vốn ghi nhận tại Cv 6:7 rằng nhiều tư tế Do Thái Giáo “tùng phục đức tin”, nhưng ngài có cách riêng để nói tới bước tiếp theo của việc lắng nghe: trung thành đầy cởi mở (với tấm lòng cao thượng và quảng đại) và kiên trì (không khuất phục trước mất gốc, chối đạo hay cám dỗ thế gian; xem Lc 8:11-14).

Đôi khi Thánh Luca dùng danh từ “đức tin” đứng một mình như là đồng nghĩa với Kitô Giáo (Cv 6:7; 13:8; 14:22), đôi khi ngài dùng các hạn từ “người tin” hay “những người đã tin” để chỉ các Kitô hữu (Cv 2:44; 4:4, 32; 5:14; 11:21; 14:1; 15:5,7; 17:12,34; 18:8, 27; 19:2,18; 21:20, 25; 22:19). Những mô tả khác nhau ấy khiến ta nghĩ tới việc phân biệt giữa fides qua fides quae tức đức tin nhờ đó ta tin và đức tin mà ta tin (theo nghĩa nội dung). Nhưng đây chỉ là phân biệt của thần học sau này, chứ các soạn giả Tân Ước, cả Thánh Luca lẫn Thánh Phaolô, đều không có thứ phân biệt này. Điều này cần phải nhớ nhất là đối với Lc 22:32, khi Chúa Giêsu cầu nguyện để “đức tin” của Phêrô đừng lung lay.

Có khi Thánh Luca nối kết “đức tin” với “công chính hóa” và việc đặt kế bên nhau này khá có ý nghĩa: “chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em, và tất cả những gì anh em đã không được tha để nên công chính nhờ Luật Môsê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13:38-39). Điều đáng lưu ý ở đây là Thánh Luca không liên kết đáp ứng đức tin của con người một cách gần gũi với công chính hóa như Thánh Phaolô. Ngài nói nhiều hơn tới vai trò của đức tin trong việc tha thứ tội lỗi và ban ơn cứu độ.

Mối liên hệ giữa đức tin và ơn cứu rỗi thường được nhắc tới luôn trong Tin Mừng Luca. Ở đây, ta thấy có vấn đề: ta phải hiểu đức tin ra sao trong các câu như “lòng tin của ngươi đã cứu ngươi” (Lc 7:50; 8:48; 17:19)? Muốn trả lời câu hỏi này, ta phải dựa vào các giai đoạn khác nhau của truyền thống tin mừng. Về phương diện này, ta thấy có ba giai đoạn: giai đoạn I liên quan tới việc Chúa Giêsu lịch sử quê thành Nadarét đã làm và đã nói những gì; giai đoạn II liên quan tới điều được rao giảng và công bố về Người sau phục sinh. Giai đoạn III liên quan tới những điều được các soạn giả Tân Ước quyết định viết xuống về Người. Ở giai đoạn I, đức tin khó có thể có nghĩa đầy đủ như đức tin sau phục sinh. Nhưng ở giai đoạn III, và trên bình diện soạn tác của Thánh Luca, đức tin hẳn phải có nghĩa đầy đủ. Về điểm này, ta thấy những câu trên thuộc truyền thống tin mừng trước Thánh Luca, như các câu Mc 5:34; 10:52 đã chứng tỏ. Các câu này ít nhất cũng nói lên việc nhìn nhận Người như sứ giả của Thiên Chúa; khó có thể nói hơn thế.

Rất có thể Thánh Luca hiểu rõ mối liên hệ giữa đức tin và ơn thánh. Ngài nói về Apôlô rằng khi tới Côrintô, “nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích nhiều cho các tín hữu” (Cv 18:27). Vấn đề là cụm từ “nhờ ơn Chúa giúp” đây không bổ nghĩa cho “các tín hữu” mà bổ nghĩa cho động từ “giúp ích” như lối dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ ở đây.

Dù sao, lối sắp xếp nguồn “Q” trong các câu 17:5-6 của Thánh Luca cho thấy đức tin của người ta có thể gia tăng, vì các tông đồ xin Chúa thêm lòng tin cho các ông. Và câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý cho thấy đức tin của các ông còn nhỏ hơn cả hạt mù-tạt.

Tương phản với Tin Mừng Máccô, trong đó, Đức Maria xem ra được kể trong số các thân nhân của Chúa Giêsu tin rằng Người mất trí (Mc 3:21), Thánh Luca mô tả Đức Mẹ là người đầu tiên “đã tin” trong Tin Mừng của mình (Lc 1:45) và còn thuật rằng Đức Mẹ cầu nguyện với Nhóm Mười Một và nhiều người khác khi cùng họ chờ đợi ơn Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là Đức Mẹ thuộc nhóm những tín hữu đầu tiên của thời đại hậu phục sinh.

B. Thống hối và hoán cải

Thống hối, nguyên ngữ Hy Lạp metanoi có nghĩa thay đổi tâm trí. Nhưng trong Tân Ước, nó thường có nghĩa tôn giáo chỉ việc ngoảnh mặt đối với tội lỗi, bắt đầu một tác phong luân lý mới. Trong Tin Mừng Luca, nó xuất hiện 5 lần dưới dạng danh từ, 9 lần dưới dạng động từ; còn trong Công Vụ, nó xuất hiện 6 lần dưới dạng danh từ và 5 lần dưới dạng động từ; hơn hẳn hai Tin Mừng Mátthêu và Máccô. Điều ấy đáng lưu ý vì nó có liên hệ tới quan niệm của Thánh Luca coi sự tha tội như là hiệu quả của biến cố Chúa Kitô (2).

Liên hệ mật thiết với thống hối là trở lại, hồi tâm, quay về. Dưới dạng danh từ, nó chỉ xuất hiện một lần trong Cv 15:3, nói đến việc trở lại của Dân Ngoại. Nhưng dưới dạng động từ, nó được dùng thường xuyên hơn, phần lớn chỉ việc con người quay trở lại với Thiên Chúa hay với Chúa Giêsu, từ tội lỗi hay ngoại đạo. Với nghĩa ấy, ít nhất nó cũng xuất hiện trong Lc 1:16, 17; 17:4; 22:32, và trong Cv 9:35; 11:21; 14:15; 15:19; 26:18 (từ bóng tối qua ánh sáng); 28:27.

Tuy nhiên, có 3 chỗ, Thánh Luca liên kết ăn năn thống hối với hóan cải trở lại: “Hãy thống hối và trở lại với Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:19); “tôi đã rao giảng… kêu gọi họ thống hối và trở về cùng Thiên Chúa, đồng thời làm những việc chứng tỏ lòng ăn năn thống hối” (Cv 26:20); và “dù người anh em của anh xúc phạm đến anh một ngày bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó” (Lc 17:4). Dù trong trích dẫn sau cùng, hai hạn từ này được sử dụng vào hành vi nhân bản, nhưng cả ở chỗ này, sự liên kết giữa hai hạn từ cho ta thấy mối liên hệ gần gũi của chúng trong tư duy của Thánh Luca. Thực ra, chúng như hai mặt của một đồng tiền; một mặt nói lên khía cạnh tiêu cực: từ bỏ tác phong tội lỗi; mặt kia nói lên khía cạnh tích cực: trở về cùng Thiên Chúa.

Trong quan điểm của Thánh Luca, cả hai diễn trình trên bổ túc cho đức tin. Ngài mô tả cuộc sống người Kitô hữu theo phạm trù đạo đức, chứ không hẳn theo phạm trù thiêng liêng, như được Chúa Thánh Thần chiếm hữu, nên thống hối và hoán cải, dù cũng là ơn ban của Chúa như đức tin, nhưng phải được hiểu như để bổ túc cho đức tin.

Ở hai nơi, Thánh Luca nói tới “thống hối và tha tội” (Lc 24:47; Cv 5:31) chung với nhau, như ơn đã được ban cho It-ra-en và được dự tính rao giảng cho muôn dân. Hai ơn này gắn bó với nhau thật gần gũi. Nếu nói về phản ứng của con người đối với biến cố Chúa Kitô, thì thống hối là điều kiện để được ơn tha tội.

C. Rửa tội

Giống Thánh Phaolô, Thánh Luca cũng tiếp nối truyền thống của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi mà đòi hỏi người ta không những tin vào Chúa Giêsu Kitô và vai trò của Người trong kế hoạch cứu rỗi của Chúa Cha, mà còn phải được rửa tội nhân danh Người nữa. Thực thế, dù không mô tả nghi thức rửa tội, nhưng trong trình thuật Luca, đương nhiên việc ấy được coi như thành phần căn bản trong phản ứng của con người trước việc công bố biến cố Chúa Kitô.

Không như Ga 3:26, là đoạn mô tả Chúa Giêsu rửa tội cho người ta, một điều sau đó đã được Ga 4:2 cải chính, các soạn giả Nhất Lãm không bao giờ trình bầy như thế cả. Thành thử khó mà định gốc rễ của phép rửa nơi hành động của chính Chúa Giêsu. Tuy nhiên, nhu cầu cần được rửa tội thì rất hiển nhiên trong lời ủy nhiệm long trọng của Người ở cuối Tin Mừng Mátthêu (Mt 28:19) và Tin Mừng Máccô (Mc 16:16). Tuy nhiên, trong lời ủy nhiệm cho Nhóm Mười Một và những người khác ở Lc 24:47-49, thì phép rửa không được nhắc tới, mà chỉ nói đến việc rao giảng thống hối và tha tội nhân danh Người mà thôi.

Nhưng rõ ràng là Thánh Luca quan tâm tới việc phân biệt giữa phép rửa của Gioan và phép rửa Kitô Giáo, dù ngài vẫn tin nguồn gốc trên trời của phép rửa trước (Lc 7:30; 20:4). Sự phân biệt này đã có trong truyền thống Máccô (Mc 1:8), Thánh Luca chỉ nhấn mạnh mà thôi (xem Lc 3:16; Cv 1:5; 11:16; 18:25; 19:3-6). Phép rửa của Gioan là để đánh dấu khởi đầu Thời Kỳ Chúa Giêsu, nhưng nó khác với phép rửa của Chúa Giêsu vì nó không thông ban Chúa Thánh Thần, dù đó là phép rửa thống hối để được tha tội (Lc 3:3), hai ý niệm vốn liên hệ tới biến cố Chúa Kitô.

Và một khi cái hậu của câu truyện về Chúa Giêsu bắt đầu trong Công Vụ, thì nhu cầu được rửa tội đã không ngừng được nhấn mạnh. Diễn từ của Thánh Phêrô trong ngày lễ Ngũ Tuần đã kết thúc như thế này: “Hãy thống hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2:38). Có điều, khó có thể tìm thấy một khẳng định trực tiếp nào về sự cần thiết của việc chịu rửa tội trong các trước tác của Thánh Luca không như Ga 3:5. Sự cần thiết ấy chỉ được ngụ ý trong các câu như Cv 2:38 (vừa trích dẫn); 8: 12, 37; 9:18; 10:48. Người ta cũng không tìm được lời giải thích nào về bản chất của phép rửa Kitô Giáo, như lời giải thích ở Rm 6:3-11; Gl 3:27-28. Tuy thế, Cv 22:16 ngụ ý: phép rửa tẩy sạch tội lỗi.

Chúng ta chưa bao giờ đọc thấy việc các tông đồ và môn đệ đầu hết được rửa tội; chỉ được đọc: các ngài được lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần và khi đã lãnh nhận được “điều Cha Thầy đã hứa”, các ngài đã mạnh dạn lên đường rao giảng sứ điệp Kitô Giáo và kêu gọi người ta chịu phép rửa nhờ đó họ cũng được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Nhưng Cv 9:18 xác nhận: Thánh Phaolô chịu phép rửa.

Dù mối liên hệ của Chúa Thánh Thần với phép rửa được Cv 1:5 và 11:16 xác nhận, nhưng không chỗ nào trong các trước tác của Thánh Luca nói tới việc phép này được thực hiện nhân danh Chúa Thánh Thần, hay nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như trong Mt 28:19. Hình thức rửa tội có tính Ba Ngôi có thể chỉ xuất hiện sau này. Trong Công Vụ, phép rửa thường được thực hiện “nhân danh Chúa Giêsu Kitô” (Cv 2:38; 10:48) hay “nhân danh Chúa Giêsu” (Cv 8:16; 19:5). Có thể vì Thánh Luca muốn nhấn mạnh tới khía cạnh: qua phép rửa, Kitô hữu dự phần vào hiệu quả của biến cố Chúa Kitô.

Về phép rửa nhân danh Chúa Giêsu, 3 bản văn sau đây có vấn đề: Trong Cv 8:16, xem ra người Samaria, dù đã được môn đệ Philíp rửa tội nhân danh Chúa Giêsu rồi, nhưng vẫn chưa lãnh nhận được Chúa Thánh Thần, nên hai tông đồ Phêrô và Gioan phải được phái tới với họ. Trong Cv 10:44-48, Chúa Thánh Thần ngự xuống gia hộ người ngoại giáo là Cornêliô ngay khi Thánh Phêrô còn đang rao giảng cho họ; rồi sau đó, Thánh Phêrô ra lệnh cho họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Trong Cv 19:1-6, Thánh Phaolô, khi tới Êphêsô và thấy một số tân tòng chỉ mới được chịu phép rửa của Gioan, đã rửa tội cho họ nhân danh Chúa Giêsu, sau đó đặt tay trên họ và họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Ba đoạn văn ấy dường như muốn phân biệt giữa phép rửa nhân danh Chúa Giêsu và việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần.

Đối với vấn nạn trên, đã có nhiều cố gắng giải thích. Nhiều thần học gia sau này đã dựa vào đây để phân biệt dứt khoát hai bí tích rửa tội và thêm sức. Nhiều học giả khác nhấn mạnh tới hai hình thức rửa tội trong Giáo Hội sơ khai: phép rửa nhân danh Chúa Giêsu và phép rửa nhân danh Chúa Thánh Thần. Xem ra hai giải đáp này đã không xét gì tới việc thực sự đã xẩy ra trong trình thuật của Thánh Luca. Trong câu truyện về Thánh Phaolô (Cv 9:17-18), dưới nhãn quan Thánh Luca, việc lãnh nhận Chúa Thánh Thần quan trọng hơn, nên ngài đã nhắc đến nó trước phép rửa, để chứng minh rằng việc Thánh Phaolô gia nhập cộng đồng Kitô hữu là một hồng ân của chính Thiên Chúa. Cũng vậy, việc phân biệt giữa phép rửa và việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần trong các đoạn văn khác đã được dùng để nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần được thông ban qua Giáo Hội, nhất là qua nhóm Mười Hai, hay các thành viên của nhóm này (như Thánh Phêrô và thánh Gioan trong chương 8) và các vị được các ngài ủy nhiệm (như Thánh Phaolô trong chương 19). Cũng có thể cho rằng: sự phân biệt trên cho thấy quan tâm của Thánh Luca muốn hội nhập các hình thức không mấy trưởng thành của Kitô Giáo sơ khai vào dòng chẩy chính. Điều này đặc biệt đúng đối với các chương 8 và 19.

II. Các đòi hỏi của đời sống Kitô hữu

Thêm vào ba đáp ứng căn bản trên, các trước tác của Thánh Luca còn những cách khác để mô tả cuộc sống Kitô hữu phải nên như thế nào. Sau đây là một vài yếu tố.

1. Bước theo Chúa Giêsu

Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, người ta phải bước chân theo Người trên con đường Người đã đi tới đích Giêrusalem và tới Cha của Người. Trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, ý niệm ấy đôi lúc đã được đặt lên tuyến đầu. Việc Thánh Luca sửa đổi một số câu nói của Chúa Giêsu là để làm rõ đòi hỏi ấy, áp dụng nó một cách tượng hình vào cuộc hiện sinh hàng ngày của Kitô hữu.

Tuy nhiên, những câu như “hãy theo tôi” thực ra đã có trong Mc 2:14; 10:21. Nhưng, với Thánh Luca, chúng được nhấn mạnh hơn. Đặc biệt, chúng được liên kết với trình thuật du hành: ngay sau khi giới thiệu cuộc hành trình này (Lc 9:51-56), các câu “theo thầy” đã xuất hiện khi Chúa Giêsu nói với 3 môn đệ lúc “đang đi trên đường” rồi (Lc 9:57-62). Hai câu đầu là lấy của nguồn “Q” (xem Mt 8:19-22). Còn câu thứ ba có thể là nguồn riêng của Thánh Luca.

Như thế, theo Thánh Luca, việc làm môn đệ của Kitô hữu được mô tả không những như việc chấp nhận giáo huấn của Thầy mà còn như việc đồng dạng đồng hình con người của mình theo cách sống và theo số phận của Thầy bằng cách thân mật, đích thân theo Người. Môn đệ phải bước chân theo bước chân Thầy Giêsu.

Ẩn dưới ý niệm trên, ta thấy Thánh Luca coi mạc khải Thiên Chúa về sự cứu rỗi nơi Chúa Giêsu như mạc khải về một con đường. Vì ơn cứu rỗi không được trình bày trong những biến cố biệt lập của sứ vụ Chúa Giêsu, bất kể đó là các vụ chữa bệnh, trừ qủy hay hồi sinh, và cả sự thống khổ hay cái chết của Chúa Giêsu, hiểu theo nghĩa biệt lập. Tất cả các yếu tố ấy phải được quan niệm như là thành phần của một khuôn mẫu được mô tả là con đường mà Chúa Giêsu đã bước lên, đã di chuyển trên đó, và đã hướng tới đích điểm là trở về với Chúa Cha. Như thế, làm môn đệ Chúa Kitô là bước chân gần gũi với Người, trên hành trình của Người.

Ý niệm trên xuất hiện lần đầu tiên với lời kêu gọi Phêrô làm kẻ đánh cá người (Lc 5:11). Nó xuất hiện lần nữa với lời kêu gọi Lêvi (Lc 5:27-28). Những người này lần đầu tiên được gọi là môn đệ, những người theo Chúa Giêsu, ở Lc 5:30 và 6:1, được phân biệt với đám đông bình thường (Lc 6:17). Tuy nhiên, có lúc ta cũng thấy cả đám đông nữa cũng theo Chúa Giêsu (Lc 7:9; 9:11). Như thế, Thánh Luca đã dùng động từ akolouthein (theo) hai cách: như một chữ chung chỉ những người theo Chúa Giêsu về thể lý, vì tò mò hay muốn xem phép lạ hay như một chữ tượng hình chỉ việc làm môn đệ.

Một nghĩa tập thể chỉ việc theo đã được tìm thấy trong Công Vụ Tông Đồ khi Cộng Đồng Kitô Hữu Palestine được gọi là “Đạo” (the Way). Kiểu dùng độc lập này trong Tân Ước chỉ có nơi Thánh Luca: Cv 9:2; 19:9, 23; 22:4; 24:14, 22. Ở chỗ khác, ngài nói tới “con đường cứu rỗi” (Cv 16:17), “đạo Chúa” (Cv 18:25) hay “đạo của Thiên Chúa” (Cv 18:26). Và nhiều người cho rằng “Đạo” là lối nói tắt của các kiểu nói đầy đủ này, mà họ cho là mô phỏng của Is 40:3: “Hãy làm thẳng con đường của Chúa”. Cũng rất có thể Thánh Luca chỉ lặp lại một kiểu nói mà chính các Kitô hữu Palestine đã dùng để chỉ về mình, tương phải với danh xưng “bè phái” bị người Do Thái gán cho họ (xem Cv 24:14). Câu này và câu 24:5 xem ra muốn ngụ ý rằng cộng đồng Kitô hữu bị người Do Thái gọi là “phái Nadarét”. Chữ phái này đã được Thánh Luca dùng để gọi nhóm Xađốc ở Cv 5:17 và nhóm Biệt Phái ở Cv 15:5. Phần ngài, linh mục Fitzmyer cho rằng chữ “Đạo” cũng đã được dùng chỉ cộng đồng Essene trong tài liệu Qumran. Ở đây, ta chỉ tập chú vào việc Thánh Luca sử dụng kiểu nói này để làm nổi bật việc làm môn đệ Chúa Kitô là bước chân cùng đi với Người một con đường.

2. Làm chứng

Một khía cạnh khác trong quan điểm của Thánh Luca về việc làm môn đệ là bổn phận làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Làm chứng (martyria) là một ý tưởng quan trọng trong Tin Mừng Gioan, nhưng ít được nói tới trong các tin mừng Nhất Lãm, ngoại trừ ở chương cuối Tin Mừng Luca. Sau đó, nó trở thành chủ đề trong Công Vụ. Trong khi lời ủy nhiệm trong các tin mừng Mátthêu và Máccô nhấn mạnh tới rao giảng, giáo huấn và làm người ta trở thành môn đệ (Mt 28:19-20; Mc 16:15-16), thì trong Lc 24:48, lời ủy nhiệm ấy được tóm lược trong việc làm chứng: “các con sẽ là chứng nhân của những điều này”. Tầm quan trọng của làm chứng sau đó đã được minh xác hơn nữa trong diễn từ của Thánh Phêrô lúc Cornêliô trở lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem… Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).

Diễn từ trên của Thánh Phêrô giúp ta lượng giá được việc trước đó Thánh Luca nhấn mạnh tới sự kiện các môn đệ Galilêa được chính Chúa Giêsu qui tụ, tới sự kiện các ông được huấn luyện trong trình thuật du hành làm chứng nhân cho Người từ Galilêa, và tới hình thức của lời ủy nhiệm long trọng. Thực thế, lời ủy nhiệm này đã được lặp lại trong câu nói tới chương trình hành động tức Cv 1:8: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất”. Việc các môn đệ thực hiện vai trò này đã được nhắc tới ở Cv 2:32; 3:15; 5:32; 13:31.

Khía cạnh làm môn đệ Chúa Giêsu này có liên hệ tới việc theo chân Chúa Kitô đã bàn ở trên. Nó cũng giải thích tại sao người được chọn để thay thế cho Giuđa làm một trong nhóm Mười Hai phải là người từng cùng đồng hành với nhóm này trong suốt thời gian Người tới lui giữa họ từ lúc Người chịu phép rửa của Gioan cho tới lúc Người lên trời (Cv 1:21-22).

3. Cầu nguyện

Thánh Luca còn nhấn mạnh tới một khía cạnh khác của đời sống Kitô hữu là việc người môn đệ phải liên tục đối thoại với Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, hơn mọi tin mừng gia khác, ngài đã nhấn mạnh đến việc Chúa Giêsu năng cầu nguyện. Trong Công Vụ, ngài càng nhắc tới việc đó nhiều hơn nữa khi nói tới các Kitô hữu đầu tiên.

Việc nhấn mạnh trên đã bắt đầu ngay trong trình thuật loan báo Gioan Tẩy Giả sinh ra: giữa lúc Giacaria dâng hương, dân chúng đứng ngoài cung thánh cầu nguyện (Lc 1:10). Chính trong bầu khí cầu nguyện cộng đồng ấy, Giacaria được loan báo là lời cầu nguyện của ông được chấp nhận (Lc 1:13). Lòng sùng mộ Đền Thờ từng phảng phất khắp trình thuật tuổi thơ bao gồm câu truyện về nữ tiên tri Anna, người từ lúc chồng qua đời, không rời Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm phụng sự Thiên Chúa; và việc bà tuyên bố về vai trò của Chúa Giêsu trong việc giải phóng Giêrusalem mặc nhiên đã bắt nguồn từ cuộc đối thoại liên tục với Thiên Chúa (Lc 2:36-38).

Ngoài ra, chỉ có Thánh Luca đã cho ta hay Gioan Tẩy Giả thường dạy các môn đệ của ông cầu nguyện (Lc 11:1). Ngài cho biết điều này trong phần dẫn nhập vào Kinh Lạy Cha, trong đó, các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện đủ nói lên việc cầu nguyện trong cuộc sống làm môn đệ Chúa Kitô quan trọng như thế nào.

Các chi tiết trên liên kết việc cầu nguyện với Thời Kỳ It-ra-en. Việc cầu nguyện này, trong Thời Kỳ Chúa Giêsu, còn được nhấn mạnh hơn nữa. Như trên đã nói, Thánh Luca năng thuật lại việc Chúa Giêsu cầu nguyện. Nhiều biến cố trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu đã được liên kết với cầu nguyện hoặc trước, hoặc sau các biến cố ấy: lúc chịu phép rửa (Lc 3:21), trước khi chọn nhóm Mười Hai (Lc 6:12), trước lời tuyên xưng của Phêrô và tuyên bố thứ nhất về cuộc thống khổ của Người (Lc 9:18), lúc hiển dung (Lc 9:28), trước khi dạy Kinh Lạy Cha (Lc 11:2), trong bữa Tiệc Ly (để củng cố đức tin của Phêrô, Lc 22:32), lúc hấp hối tại Vườn Cây Dầu (Lc 22:41), và trên thập giá (Lc 23:46). Trong các biến cố trên, Thánh Luca duy trì truyền thống trước ngài đề cập tới việc Chúa Giêsu thường rút lui khỏi các môn đệ và đám đông để vào nơi vắng vẻ cầu nguyện. Đôi khi, Người lên Núi Cây Dầu hay một ngọn đồi không tên nào đó để cầu nguyện: đồi núi được coi như nơi đặc biệt để chuyện trò cùng Chúa Cha. Thực thế, có một lần Thánh Luca thêm vào việc Chúa Giêsu rút lui lên Núi Cây Dầu cầu nguyện câu này: “như đã quen” (Lc 22:39).

Không những nói đến việc Chúa Giêsu năng cầu nguyện, Thánh Luca đôi lúc còn cho ta hay Người cầu nguyện ra sao và với nội dung gì. Như đoạn trích từ nguồn “Q”, ngài mô tả Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha, trong niềm vui hớn hở, đã mạc khải cho những kẻ bé mọn biết về Người và về mối liên hệ Cha Con của Người với Chúa Cha, một điều Chúa Cha đã dấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, kể cả các tiên tri và vua chúa (Lc 10:21-23). Rồi, sau Bữa Tiệc Ly và lúc ở trên Núi Cây Dầu, Người cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho Con khỏi uống chén này; tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42). Lời khẩn cầu này kết thúc bằng việc vâng phục kế hoạch cứu rỗi sẽ được thực hiện. Cũng một lời cầu nguyện đầy tín thác con thảo ấy đã được ghi nhận lúc Người bị treo trên thập giá: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” vang dội lại lời Thánh Vịnh 31:6. Lời cầu nguyện cùng Chúa Cha của Người dưới đủ mọi hình thức: ngợi khen, tạ ơn, khẩn cầu, suy phục và tín thác con thảo.

Chỉ có Thánh Luca thuật lại việc các môn đệ yêu cầu Chúa dạy cầu nguyện đồng thời nhắc đến việc Gioan Tẩy Giả năng dạy môn đệ ông việc ấy (Lc 11:1). Chính trong ngữ cảnh ấy, Thánh Luca đã dẫn nhập Kinh Lạy Cha. Ở đây, nội dung lời cầu nguyện Kitô Giáo đã được vạch ra: Thiên Chúa được tôn xưng là Cha, được ca ngợi, được nhìn nhận là nguồn mọi nâng đỡ vật chất, tha thứ, và tự do thoát khỏi cám dỗ.

Ngoài lời yêu cầu được dạy cách cầu nguyện trên, Thánh Luca còn đề cập tới nhiều biến cố khác để nhấn mạnh tới việc phải cầu nguyện: Ngài cho biết lý do Chúa kể dụ ngôn quan tòa bất chính là “để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18:1); cũng trong dụ ngôn này, khi người đàn bà bất hạnh được quan tòa bất chính nghe lời, Chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca nhận định: “chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?” (Lc 18:7). Khi sai Bẩy Mươi (Hai) Môn Đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không phải chỉ dạy họ phải rao giảng, chữa bệnh, mà còn phải cầu nguyện nữa: “anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2). Và sau giáo huấn về Kinh Lạy Cha, là dụ ngôn người bạn quấy rầy (Lc 11: 5-8) và nhiều lời khác về sự hữu hiệu của lời cầu nguyện (Lc 11:9-13).

Thánh Luca không phải chỉ trình bày cầu nguyện căn cứ vào giáo huấn và gương sáng của Chúa Giêsu mà thôi, ngài còn mô tả việc ấy như là một phần trong đời sống Kitô hữu buổi đầu. Thực vậy, ngay ở đầu Sách Công Vụ, ta đã được Thánh Luca cho hay: cộng đoàn Kitô hữu chuyên chăm việc chuyện trò cùng Thiên Chúa. Nhóm Mười Một, Đức Maria, thân nhân Người và nhiều phụ nữ khác đã đồng tâm nhất trí với việc cầu nguyện chung (Cv 1:14). Việc này được ghi nhân trước cả biến cố Hiện Xuống và việc lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Việc cộng đoàn cầu nguyện này cũng đã được nhắc đến trong tuyên bố tóm lược ở Cv 2:42.

Điều đáng lưu ý là dù sau biến cố Hiện Xuống, Thánh Phêrô và Thánh Gioan vẫn lên Đền Thờ vào giờ thứ chín, giờ cầu nguyện giữa buổi chiều (Cv 3:1), cho thấy: các ngài vẫn liên kết với đời sống cầu nguyện của It-ra-en. Trước đó, Lc 24:53 cho thấy các môn đệ, sau khi Chúa về trời, “hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Còn ở Cv 10:9, 30: 11:5, thị kiến giải phóng đã được ban cho Thánh Phêrô trong bối cảnh cầu nguyện.

Khi nhóm Bẩy Người được đề cử để phục vụ bàn ăn, Thánh Luca cho biết việc này là để nhóm Mười Hai chú tâm vào “việc cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa” (Cv 6:4). Căn cứ vào thứ tự các từ ngữ, ta thấy, theo Thánh Luca, việc cầu nguyện cũng quan trọng đối với người tông đồ Kitô Giáo như “việc phục vụ Lời Chúa, tức việc rao giảng sứ điệp Kitô Giáo vậy. Ngoài ra, Thánh Luca còn mạnh dạn tiếp nhận hai chủ đề trong lòng đạo đức của Do Thái Giáo là cầu nguyện và bố thí, coi chúng như những việc làm khiến Thiên Chúa nhớ tới ta (Cv 10:2-4).

Thánh Luca cũng không ngần ngại trình bày một điển hình về lời cầu nguyện của Kitô hữu, được ngỏ với Thiên Chúa như Chúa Tể Tối Cao, trong đó, Người được nhìn nhận là Đấng Tạo Dựng, Đấng linh hứng cho Đavít viết thánh vịnh, và là đấng lên khuôn cho kế hoạch cứu rỗi được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Người được cầu xin giúp các môn đệ can đảm rao giảng sứ điệp về Người và về Đấng Người Xức Dầu, bất chấp các đe dọa của vua chúa quan quyền, cũng như chữa lành nhân danh tôi tớ Người là Chúa Giêsu (Cv 4:24-30). Lời cầu ấy trở thành bối cảnh để họ được tràn ngập Chúa Thánh Thần.

Các biến cố quan trọng trong đời Chúa Giêsu đã được đánh dấu bằng việc cầu nguyện như thế nào, thì cuộc sống của cộng đồng Kitô hữu sơ khai cũng được đánh dấu bằng việc cầu nguyện như vậy. Họ khẩn khoản xin Thiên Chúa tỏ sự chọn lựa của Người đối với kẻ thay thế Giuđa bằng cách rút thăm (Cv 1:24); họ nài xin cho Thánh Phêrô được thoát tay Hêrốt Agrípa (Cv 12:5). Lời cầu nguyện đi đôi với việc đặt tay chọn bẩy phó tế (Cv 6:6), việc cử Banaba và Phaolô đi truyền giáo (Cv13:3); nó cũng đi đôi với việc hai vị này đề cử các trưởng lão tại từng Giáo Hội (Cv 14:23).

Thánh Luca cũng không quên nói tới vị trí của cầu nguyện trong cuộc đời Thánh Phaolô, vị anh hùng của nửa phần sau Công Vụ. Bị hóa mù trên đường Đamát, việc ngài được dẫn nhập vào đời sống Kitô Giáo đã được đánh dấu bằng cầu nguyện và nhờ thế được thị kiến Anania đến giúp mình (Cv 9:11) nghĩa là được nhìn lại và được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Dù ngài là người đem sứ điệp Kitô Giáo tới Dân Ngoại, nhưng ngài được trình bày không ngừng thờ phượng Thiên Chúa của “cha ông chúng ta” (Cv 24:14). Việc ngài từ giã các trưởng lão Êphêsô chỉ diễn ra sau khi ngài cùng qùy gối cầu nguyện với họ (Cv 20:36).

Tóm lại, Thánh Luca không ngần ngại nhấn mạnh tới mọi cách thế khác nhau của nhu cầu cầu nguyện trong đời sống Kitô hữu và tới mọi hình thức cũng như các dịp khác nhau của nó. Về phương diện này, điều khởi đầu vốn là một biểu hiện của lòng đạo đức Do Thái Giáo, nay đã được ngài biến thành đặc điểm của Kitô Giáo: sự lệ thuộc vào Thiên Chúa và Đấng Người Xức Dầu nay đã được trình bày theo cả viễn ảnh cộng đoàn lẫn viễn ảnh cá nhân như cách thế thân thưa cùng các vị. Lý do hay nhất của lời khuyên cầu nguyện đã được Thánh Luca ghi ở Lc 22:46, lúc Chúa Giêsu thấy các môn đệ của Người đang mê ngủ trong khi Người cầu nguyện: “Dậy đi mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. Cám dỗ đây chắc chắn ám chỉ việc phản bội Người. Lc 18:1-8 cho biết rõ cầu nguyện chính là dấu ấn của niềm tin Kitô Giáo: Thiên Chúa sẽ bênh vực những kẻ kêu cứu Người, nhưng khi ngự đến, không biết Con Người có còn tìm thấy niềm tin kêu cầu ấy trên trần gian nữa không?

4. Môn đệ sử dụng đúng đắn của cải vật chất

Có lẽ ngoại trừ soạn giả Thư Giacôbê ra, không soạn giả Tân Ước nào nhấn mạnh tới việc sử dụng của cải vật chất nơi các Kitô hữu bằng Thánh Luca. Không những duy trì các lời nói của Chúa Giêsu về giầu nghèo, ngài còn đặt vào môi miệng Chúa Giêsu nhiều câu nói phản ảnh chính thái độ của ngài về vấn đề này. Trong Công Vụ, ngài còn vẽ ra hình ảnh thân thương trong đó các Kitô hữu tiên khởi đặt mọi sự làm của chung và cùng nhau chia sẻ miếng cơm manh áo hằng ngày.

Thực ra, các yếu tố trong thái độ đối với của cải vật chất phần lớn đã được liệt kê trong truyền thống trước Thánh Luca, nhất là thuộc nguồn Máccô. Về điểm này, ta thấy Thánh Luca duy trì câu Chúa Giêsu ví người giầu vào nước thiên đàng khó như lạc đà chui qua lỗi kim khâu (Lc 18:25; Mc 10:25), hay câu truyện đồng tiền nhỏ của bà góa (Lc 21:1-4; Mc 12:41-44). Ngài cũng duy trì câu Chúa Giêsu nói về việc nạp thuế cho Xêda (Lc 20:20-26; Mc 12:13-17). Cũng như Thánh Máccô, ngài tỏ ra tởm gớm trước thái độ của Giuđa: sẵn sàng phản bội Thầy vì mấy đồng bạc (Lc 22:5; Mc 14:11). Trong Mc 10:17-21, Chúa bảo người thanh niên giầu có bán những gì anh ta có, cho người nghèo rồi đến theo Người. Thánh Luca cũng nhắc lại những điểm đó, nhưng nhấn mạnh: người thỉnh ý Chúa Giêsu không phải là một thanh niên giầu có mà là “một thủ lãnh” và thêm chữ tất cả: “bán hết tất cả những gì ông có” (Lc 18:18-22). Cũng thế, khi lặp lại việc Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan bỏ lưới, bỏ cha, theo Chúa Giêsu của Mc 1:18,20, Thánh Luca nhấn mạnh: “họ bỏ mọi sự mà theo Người” (Lc 5:11). Ngài duy trì các câu của nguồn “Q” như Con Người không có chỗ đặt đầu (Lc 9:58); lời khuyên không nên lo lắng về ăn mặc (Lc 12:22-32); cho cả áo ngoài lẫn áo trong (Lc 6:29); cho người ăn xin (Lc 6:30).

Việc Thánh Luca nhấn mạnh cũng như việc ngài làm nổi sự khác biệt giữa giầu nghèo đã được khám phá nhiều cách. Trong trình thuật tuổi thơ, điều đó được nhận ra lần đầu ở Kinh Ngợi Khen, theo đó, “kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giầu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53). Cung giọng thuở đầu ấy loan báo cho ta một sự lật ngược các giá trị nhân bản liên quan tới việc ra đời của Đấng thừa hưởng gia nghiệp Đavít và Ápraham.

Việc đề cập tới lời giảng của Gioan Tẩy Giả cũng cho ta thấy hình thức suy tư riêng của Thánh Luca về việc sử dụng của cải vật chất. Gioan khuyên người ta chia sẻ áo cơm với người túng thiếu (Lc 3:11), khuyên lính tráng đừng hà hiếp, tống tiền, trái lại nên bằng lòng với lương tiền của mình (Lc 3:14). Sau này, Thánh Luca còn làm sắc cạnh sự tương phản giữa Gioan trong hoang địa và những người “mặc gấm vóc lụa là” của Mt 11:8 bằng cách thêm: “áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa” (Lc 7:25).

Trong hoạt cảnh lên chương trình tại Nadarét, lời trích dẫn Is 61:1 đã lên cung giọng cho lối tường trình của Thánh Luca về việc loan báo tin mừng cho người nghèo hèn (Lc 4:18). Chủ đề này sẽ được lặp lại trong các mối phúc, mà mối đầu tiên được công bố cho “anh em là những người nghèo khó” (Lc 6:21). Các mối phúc này là của nguồn “Q”. Nơi Thánh Luca, chúng được thuật song song với các mối họa mà mối đầu tiên được ngỏ với “các ngươi là những kẻ giầu có” (Lc 6:24). Ở Mt 5:3, mối phúc được tâm linh hóa bằng “tinh thần nghèo khó”; trong Tin Mừng Luca, với song đối mối họa nhằm nguyền rủa kẻ giầu có, ta bắt buộc phải hiểu nghèo khó theo nghĩa vật chất: nghèo khó về kinh tế và xã hội, cái nghèo cào xé ruột gan! Chủ đề loan báo tin mừng cho người nghèo hèn này sẽ còn được lặp lại ở Lc 7:21-22.

Song đối giữa giầu nghèo của Lc 6:21 và Lc 6:24 là một trong những cách nhấn mạnh của Thánh Luca. Tuy nhiên, về chủ đề giầu nghèo cũng như xử lý với của cải vật chất, ta còn thấy những đoạn hoàn toàn là của Thánh Luca, như dụ ngôn người giầu ngu ngốc (Lc 12:16-21), dụ ngôn người giầu và Ladarô (Lc 16:19-26), dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (kể vì mục đích khác đã đành, nhưng vẫn là điển hình cho việc sử dụng đúng đắn của cải vật chất để giúp đỡ những người bất hạnh, Lc 10:35-37), lời khuyên nên “mời người nghèo” dự tiệc thay vì mời người hàng xóm giầu có (Lc 14:13). Đáng lưu ý hơn cả là Tin Mừng Luca đã tường thuật về Giakêu, “đứng đầu những người thu thuế và là người giầu có”, nhưng rất đáng khen vì sau đó đã dành phân nửa tài sản của mình cho người nghèo (Lc 16:1-10).

Căn cứ vào những đoạn trên đây, hoặc của truyền thống hoặc của riêng Thánh Luca, ta thấy ngài có hai thái độ đối với việc sử dụng của cải vật chất: (a) thái độ ôn hòa, khuyên người ta sử dụng khôn ngoan các của cải ấy để trợ giúp những người kém may mắn hơn mình hay để biểu lộ sự cởi mở đối với sứ điệp của Chúa Giêsu; và (b) thái độ triệt để, khuyên người ta từ bỏ mọi của cải vật chất.

Thái độ ôn hòa tìm thấy trong lời khuyên chia sẻ chúng (Lc 3:11), sử dụng chúng cách khôn ngoan (Lc 16:8a), làm phúc bố thí (Lc 12:33). Về phương diện này, ta nên lưu ý đến việc Thánh Luca mô tả các phụ nữ Galilêa “lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:3), sự kiện ngài thêm việc bố thí vào bản văn của nguồn “Q” (Lc 11:41; xem Mt 23:26), lời khen viên quản gia bất lương va việc áp dụng lời khen ấy “hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16:9). Trong Công Vụ, Tabitha được ca ngợi vì “những việc lành và bố thí” (Cv 9:36), Corneliô cũng vậy (Cv 10: 2, 4, 31: ở đây, thói quen bố thí đã được coi như ngang hàng với lời cầu nguyện “thấu tòa Thiên Chúa”). Ngược lại, thầy phù thủy Simon ở Samaria bị Thánh Phêrô quở trách vì đã dùng tiền mà “mua ân huệ của Thiên Chúa!” (Cv 8:18-20). Mặt khác, Thánh Phaolô nhắc các trưởng lão Êphêsô làm lụng vất vả để giúp người đau yếu, và nhắc họ nhớ câu của Chúa Giêsu: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).

Còn về thái độ triệt để, ta thấy có việc cho vay mà “không hề hy vọng được đền trả” (Lc 6:35), đi truyền giáo mà không cần dự trữ (không gậy, không bánh, không tiền, không túi, không bị, không giầy dép: Lc 9:3; 10:4), bán hết những gì mình có mà cho người nghèo (Lc 12:33). Câu “ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:33) quả đã tóm lược hết thái độ triệt để của Thánh Luca. Lại còn câu này nữa: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh rể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16:13).

Thái độ triệt để đối với của cải vật chất trên đây cho ta hiểu hình ảnh về cộng đồng Kitô hữu tiên khởi trong Công Vụ. Thánh Phêrô, khi chữa người ăn xin què quặt ở Cửa Đẹp trong Đền Thờ Giêrusalem, đã nói với anh ta: “vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Chúa Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3:6). Thánh Luca thuật lại việc cộng đồng tín hữu tại Giêrusalem không có người túng thiếu vì tất cả những ai có đất đai nhà cửa đều bán đi và gom tài nguyên lại với nhau để có thể phân phối cho mọi thành viên theo nhu cầu (Cv 4:34-35). Dù hình ảnh đồng tâm nhất trí tuyệt vời này sau đó đã bị hoen ố bởi hành động của vợ chồng Anania và Saphira (Cv 5:2-11) cũng như sự kêu trách của các tín hữu Do Thái theo văn hóa Hy Lạp (Cv 6:1-7), nhưng đại để hình ảnh ấy đã nói lên điều này: thái độ triệt để quả không phải chỉ là lời khuyên xuông.

Thánh Luca không ngừng ở việc mô tả người giầu và người nghèo như những người có và những người không có. Vì nếu ngài cho rằng các môn đệ Chúa Giêsu thuộc tầng lớp có có nghĩa vụ phải giúp đỡ những người thuộc tầng lớp không có, thì hiển nhiên ngài đã hiểu sự tương phản một cách khác nữa. Như theo chiều kích cánh chung chẳng hạn, theo nghĩa: Thiên Chúa, trong sự quan phòng của Người, cuối cùng sẽ lật ngược thân phận nhân bản. Khía cạnh này, như trên đã nói, lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Ngợi Khen (Lc 1:53), trong mối phúc và mối họa thứ nhất (Lc 6:20,24), và trong dụ ngôn người giầu có và Ladarô (Lc 16:19-26). Tuy nhiên, vẫn còn một chiều kích khác, vì Thánh Luca còn sử dụng sự tương phản giầu nghèo như một phân cách hai thái độ nhân bản đối với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu tiên tri, và với sứ điệp của Người ngỏ với nhân loại. Nơi Thánh Luca, người nghèo không những được hiểu theo nghĩa kinh tế xã hội, mà còn được liên kết với tù nhân, người mù, người bị áp bức (Lc 4:18) hay với những người đói khát, khóc than, bị kỳ thị, bị bách hại, và bị từ khước (Lc 6:21-22), hay với người què quặt, cùi hủi, và câm điếc, ngay cả người chết nữa (Lc 7:22). Nói cách khác, người nghèo chỉ chung khối quần chúng bị bỏ quên trong xã hội. Họ không phải là tôi tớ của kim tiền (Lc 16:13); họ không tích lũy kho lẫm cho riêng mình, nhưng “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12:21). Đặc điểm của người giầu ngu dốt là họ không cảm thấy nhu cầu phải có Thiên Chúa, trong khi người nghèo thấy ra nhu cầu ấy và chính họ là người được Chúa Giêsu tiên tri giảng giải. Sự nghèo khó như thế đã được Thánh Luca sử dụng để mô tả đáp ứng nội thẳm trong trái tim con người trước cuộc viếng thăm của Thiên Chúa qua sứ vụ và thẩm quyền của Chúa Giêsu.

III. Cuộc sống cộng đồng Kitô giáo

Thánh Luca không chỉ nói đến đáp ứng cá nhân, mà còn nói tới một đáp ứng có tổ chức theo lối cộng đồng. Trên đây, ta đã nhắc qua đến cái lối sống cộng đồng ấy mà các Kitô hữu tiên khởi gọi là “Đạo”. Ta cũng đã thấy lối gọi đó chỉ có trong Tin Mừng Luca. Ở đây, ta nhấn mạnh tới khía cạnh có tổ chức và có tính cộng đồng của nó.

Ngay từ Chúa Nhật Phục Sinh đầu hết, Thánh Luca đã mô tả các môn đệ của Chúa Giêsu như Nhóm Mười Một và các bạn hữu “đang tụ họp” với nhau (Lc 24:33) và “hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:53). Cũng thế, ở đầu Sách Công Vụ, họ được mô tả “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Chúa Giêsu” (Cv 1:14). Cái nhân này được tính gồm 120 người (Cv 1:15) và danh xưng được Thánh Luca dùng chỉ về họ là một hiệp thông, một cộng đồng (koinonia) chuyên chăm nghe giáo huấn tông đồ, bẻ bánh và cầu nguyện (Cv 2:42). Koinonia, nơi Thánh Luca, nói lên tinh thần hợp đoàn của các Kitô hữu tiên khởi, tuy chưa có thể dùng nó như một tên gọi cho tập thể của họ.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, ekklesia, Giáo Hội, đã xuất hiện trong Công Vụ. Bốn chương đầu của sách này chưa nhắc đến nó, nhưng ở Cv 5:11, nó xuất hiện lần đầu, cuối câu truyện về vợ chồng Anania và Saphira: “toàn thể Giáo Hội… đều rất sợ hãi”. Thực ra, câu này chỉ là nhận định riêng của Thánh Luca trong đó, ngài sử dụng hạn từ hiện hành lúc ấy để chỉ cộng đồng Kitô hữu khi suy tư về gương mù của cặp vợ chồng Anania. Với nghĩa chính xác chỉ Giáo Hội thì phải đợi tới lúc Thánh Phaolô xuất hiện trong Công Vụ (Cv 8:1, 3) và từ đó, nó được sử dụng liên tục. Hạn từ ekklesia không xuất hiện trong các sách tin mừng, ngoại trừ Mt 16:18 và Mt 18:17, nên việc nó thường xuyên xuất hiện trong Công Vụ và các trước tác của Thánh Phaolô là điều đáng lưu ý. Phải chăng việc thánh Phaolô dùng nó là nhân tố chính của việc gọi cộng đồng Kitô hữu là “Giáo Hội”? Và phải chăng việc từ từ dẫn nhập nó vào Công Vụ cho thấy khoảng thời gian dài mà các Kitô hữu tiên khởi cần có mới hiểu ra rằng hình thức sinh hoạt cộng đồng của họ nên mô tả là “Giáo Hội”? Những câu hỏi này có thể ảnh hưởng tới Giáo Hội học của Thánh Luca.

Có điều, khi thuật lại câu truyện trở lại của Thánh Phaolô, Thánh Luca không chuyên nhất nhắc đến hạn từ Giáo Hội. Tiếng trên trời phán với Thánh Phaolô trên đường Đamát nói rằng “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Cv 9:4). Chính Thánh Phaolô cũng thường chỉ nói tới việc mình bách hại “các môn đệ của Chúa” hay “Đạo” (Cv 9:1-2), hoặc “Đạo này” (Cv 22:4), “danh Giêsu người Nadarét” hay “nhiều người trong dân thánh” (26:9-10). Các danh hiệu này có thể là các danh hiệu tiên khởi để chỉ cộng đồng Kitô Giáo sơ khai. Dù sao, Giáo Hội như nhiệm thể Chúa Kitô trong ngữ vựng thần học của Thánh Phaolô thì không hẳn có trong thần học Luca. Nhưng điều rõ ràng là Thánh Phaolô và Thánh Luca trong Công Vụ đã dùng ekklesia làm tên gọi cho “cuộc tụ tập được mời gọi” này, tức cộng đồng Kitô hữu có tổ chức, cả địa phương lẫn phổ quát.

Riêng Thánh Luca dùng khá nhiều danh xưng để gọi các thành viên của Giáo Hội, lúc thì nói lên một thứ cơ cấu nào đó, lúc thì không. Thí dụ, ngài biết các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô được gọi chung là Kitô hữu (Cv 11:26). Nhưng đôi lúc, ngài gọi họ là môn đệ với nghĩa theo chân Chúa Giêsu hơn là với nghĩa thừa tác vụ hay chức năng nào họ có trong cộng đồng (Cv 6:1,2,7; 9:1,36). Đôi khi ngài gọi họ là anh em để hàm nghĩa một cộng đồng hơn là một chức vụ trong đó (Cv 1:15; 9:30; 10:23; 11:1,29).

Thánh Luca cũng biết một số thành viên trong Giáo Hội giữ các chức năng hay thừa tác vụ chuyên biệt như các trưởng lão, nhóm Mười Hai, và tông đồ. Điều này cho thấy cộng đồng Kitô hữu đã được tổ chức hay lên cơ cấu, tuy chưa rõ lắm việc những chức năng này làm gì.

Về các chức năng trên, Thánh Luca mô tả: trong hành trình truyền giáo I, Thánh Phaolô cho lập “các trưởng lão tại mỗi Giáo Hội” (Cv 14:23). Khi từ hành trình truyền giáo III trở lại Giêrusalem, ngài cho triệu các trưởng lão của Êphêsô tới Milêtô để nói chuyện với họ và cho họ biết họ là “những người coi sóc” (episkopoi) của Giáo Hội Chúa (Cv 20: 17, 28). Tước hiệu episkopoi chỉ xuất hiện ở đây để chỉ các viên chức của Giáo Hội, trong khi “trưởng lão” xuất hiện nhiều hơn để chỉ các viên chức địa phương (Cv 11:30; 15:2,4,6,22,23; 16:4; 20:17; 21:18).

Dĩ nhiên, Thánh Luca biết rõ nhóm Mười Hai trong Giáo Hội sơ khai. Giống các soạn giả Nhất Lãm khác, Thánh Luca tìm lại nguồn gốc của nhóm trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu (Lc 6:13; Mc 3:14; Mt 10:1-5). Nguồn gốc này hết sức quan trọng trong tư duy các tín hữu tiên khởi khiến họ ngỡ ngàng biết bao trước sự bội phản của Giuđa, “một người trong nhóm Mười Hai” (Mc 14:10,43; Lc 22:3,47; Mt 26:14; Ga 6:71). Theo chân Thánh Máccô, Thánh Luca sử dụng hạn từ này ở Lc 8:1; 9:1,12; 18:31; 22:3,47; 24:9,33 [Nhóm Mười Hai trừ Giuđa=Mười Một]. Chính hạn từ Mười Một, Mười Hai thiếu một này, đã khiến hạt nhân khởi thủy là cộng đồng tín hữu đầu hết cảm thấy nhu cầu bức bách phải tái tạo cho bằng được nhóm Mười Hai: nhờ thế, Mátthia đã được bầu thế chỗ cho Giuđa phản bội (Cv 1:26). Việc tái tạo này cần thiết trước Lễ Ngũ Tuần để cộng đồng mới này đúng khuôn đúc như It-ra-en xưa gồm 12 chi tộc. Sau đó, thì không cần nữa, vì khi Giacôbê, con trai Giêbêđê, cũng là một trong nhóm Mười Hai, qua đời dưới bàn tay Hêrốt Agripa (Cv 12:2), không thấy có nhu cầu phải tái tạo nhóm Mười Hai nữa. Thực vậy, nhóm Mười Hai được nhắc đến trong Lễ Ngũ Tuần (Cv 2:14) và trong việc đề cử 7 phó tế (Cv 6:2) và trong Cv 6:6, các ngài được nhắc tới dưới danh tông đồ.

Từ đó, một câu hỏi được đặt ra: nơi Thánh Luca, nhóm Mười Hai có đồng nghĩa với đoàn tông đồ hay không? Linh mục Fitzmyer cho rằng hình như vậy (3). Thực vậy, đối với các soạn giả Tân Ước khác, xem ra hai nhóm này, lúc đầu, là hai nhóm khác nhau. 1Cor 15:5 xem ra đã hiểu như thế, vì cho rằng Chúa đã hiện ra với Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai; rồi 1Cor 15:7 viết thêm: Người hiện ra với ông Giacô bê, rồi với tất cả các tông đồ. Con số tông đồ dường như nhiều hơn con số 12. Bởi thế ở 1Cor 15, Thánh Phaolô kể ngài là một trong số các tông đồ. Mc 3:14 chỉ đơn giản nói rằng “Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người”. Mt 10:1,5 nói rõ hơn một chút: Chúa chọn nhóm Mười Hai từ trong “các môn đệ”. Chỉ có Thánh Luca không những cũng nói thế (Lc 6:13) nhưng thêm “và gọi là tông đồ”. Danh xưng tông đồ sau đó được Thánh Luca rất năng dùng (Lc 9:10; 11:49; 17:5; 22:14; 24:10; Cv 1:2,26; 2:37,42,43; 4:33,35,36,37;5:2,12,18,29,40; 6:6; 8:1,14,18; 9:27; 11:1; 14:4,14;15:2,4,6,22,23; 16:4), khác hẳn các soạn giả khác: danh xưng apostolos chỉ thấy ở Mc 6:30; Mt 10:2 và Ga 13:16 (4). Điều này cho thấy tầm quan trọng của nhóm này trong suy nghĩ của Thánh Luca về Giáo Hội sơ khai.

Rõ ràng Thánh Luca muốn đồng nhất hóa nhóm Mười Hai với mười hai tông đồ. Đây là những người được sai đi hàng đầu, đem Lời Chúa tới tận cùng trái đất. Tuy Thánh Phaolô là nhân vật chính trong phần hai Sách Công Vụ, nhưng Thánh Luca rất ít khi sử dụng danh xưng tông đồ để gọi ngài: duy nhất có hai lần trong Cv 14:4, 14 (áp dụng cho cả Barnaba). Rất có thể đây cũng chính là sự dè dặt của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đối với Thánh Phaolô. Nên trong các thư của ngài, Thánh Phaolô để lộ sự đấu tranh riêng để được nhìn nhận là tông đồ: “Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Chúa Giêsu, Chúa chúng ta sao?” (1Cor 9:1-2; xem thêm Gl 1:1,17,19; 2Cor 12:11-12). Sự dè dặt hay đúng hơn sự ngần ngại này cũng có thể đã được phản ảnh trong các tiêu chuẩn được Thánh Luca ghi lại về việc chọn người thay thế Giuđa: không phải chỉ thấy Chúa Giêsu mà thôi, tông đồ còn phải là người cùng đồng hành với các thành viên khác của nhóm Mười Hai trong suốt thời gian Chúa Giêsu sinh hoạt giữa họ nữa (Cv 1:21).

Nhóm Mười Hai, trong suy nghĩ của Thánh Luca, là gạch nối quan trọng giữa Giáo Hội sơ khai và Chúa Giêsu lịch sử. Chính vì thế, ngay ở đầu Công Vụ, ngài nhấn mạnh rằng hạch nhân Giáo Hội ấy, gồm các Kitô hữu ban sơ, “chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy” (Cv 2:42). Khi giới hạn các tông đồ và nhóm Mười Hai, Thánh Luca đã tổng hợp các vai trò và làm tăng thẩm quyền của họ. Có một điều: không hiểu tại sao, ngài lại dành cho cả Barnaba danh hiệu tông đồ nữa. Điều thứ hai, sau Công Đồng Giêrusalem, danh xưng tông đồ cũng biến mất không được nhắc đến nữa trong cơ cấu Giáo Hội tại Giêrusalem. Danh xưng này xuất hiện lần cuối cùng trong Cv 16:4, khi Thánh Phaolô, Sila và Timôtê loan báo cho các Giáo Hội ở Tiểu Á quyết định của “các tông đồ và trưởng lão ở Giêrusalem”. Khi Thánh Phaolô trở lại Giêrusalem sau hành trình truyền giáo 3, ngài chỉ gặp Giacôbê và “mọi trưởng lão” (Cv 21:18), không thấy nhắc tới các tông đồ. Vấn đề sau cùng là về 7 phó tế được “toàn thể các môn đệ” đề cử dưới sự giám sát của nhóm Mười Hai hay “các tông đồ” (Cv 6:1-6) để “lo việc ăn uống” ngõ hầu các tông đồ có thể toàn tâm lo việc giảng dạy, cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa nói chung (6:2,4). Điều khó hiểu là 2 trong số các vị được đề cử để “lo việc ăn uống” ấy lại được Thánh Luca mô tả như những người giảng dạy: Stêphanô (Cv 6:8-7, 53) và Philípphê (Cv 8:4-13).

Như thế phải nói rằng: dù Giáo Hội sơ khai là một cộng đồng có tổ chức, nhưng cơ cấu tổ chức ấy có đặc tính có thể thay đổi được. Và do đó, khó có thể xác quyết hoàn toàn về cơ cấu của Giáo Hội ấy. Trên thực tế, Thánh Luca quan tâm nhiều hơn tới việc trình bày sự lớn mạnh của Giáo Hội trong các khía cạnh khác nhau của thế giới Địa Trung Hải và việc rao giảng Tin Mừng cho “đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Chính vì vậy, ngài hay dùng con số trong các tóm lược của Sách Công Vụ, ngầm cho thấy sự lớn mạnh, sự bình an và việc xây dựng Giáo Hội (xem Cv 2:41; 4:4; 5:14; 6:1,7; 9:31; 11:21, 24b; 12:24; 14:1; 19:20). Trong các điển hình vừa kể, các điển hình Cv 6:7; 12:24 và 19:20 nhắc đến chính sự “lớn lên” của Lời Thiên Chúa. Một khía cạnh khác của đời sống Giáo Hội là tinh thần tương trợ biểu lộ qua việc một Giáo Hội địa phương (Antiôkia) quyên góp tiền bạc gửi qua cứu trợ “anh em sống tại Giuđêa” lúc nạn đói xẩy ra dưới triều Hoàng Đế Clauđiô (Cv 11:29). Thánh Luca cũng nhấn mạnh tới khía cạnh Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn cộng đoàn có tổ chức của các Kitô hữu. Chính vì thế theo mô tả của ngài, Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống khi có sự hiện diện của các tông đồ hoặc những vị được các ngài ủy quyền.

Tóm lại, Giáo Hội học của Thánh Luca phát sinh từ ý thức chia sẻ đời sống với nhau của các Kitô hữu, một sự chia sẻ có cơ cấu. Cơ cấu này có thể thay đổi tùy theo tình thế, như việc đề cử 7 phó tế lo việc ăn uống chẳng hạn, nhưng sự thay đổi này luôn được đặt dưới sự chỉ đạo và giám sát của nhóm Mười Hai (Cv 6:2).
____________________________________________________________________________________________________________
(1) Joseph. A. Fitzmyer, The Gospel According to Luke I-IX, Anchor Book, Doubleday, 1981, các tr. 233-257.
(2) Xem liệt kê trong Fitzmyer, đã dẫn, tr.237
(3) Đã dẫn, tr. 254
(4) Ga 13:16 bản Hy Lạp, apostolos, hiểu theo nghĩa chung chỉ sứ giả được Cha An Sơn Vị dịch là sứ đồ, còn các dịch giả khác thường dịch là “người được sai đi”.
 
Thông Báo
Cáo Phó : Linh Mục Giuse Khuất Duy Linh, S.J. qua đời
Dòng Tên Việt Nam
10:50 28/01/2015
TRONG NIỀM TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH

ANH EM DÒNG TÊN VIỆT NAM

Kính Báo

Linh mục GIUSE KHUẤT DUY LINH, S.J.

Sinh ngày: 01/12/1938

Quê quán: Xuân Đoài, Phúc Thọ, Sơn Tây

Về Nhà Cha lúc 13 giờ, ngày 25 tháng 01 năm 2015

(nhằm ngày 06 tháng 12 năm Giáp Ngọ)

Hưởng thọ 77 tuổi

Sau 47 năm thi hành tác vụ Linh Mục

Và 55 năm sống đời thánh hiến trong Dòng Tên

Chương trình Tang lễ

- Nghi thức Tẩn Liệm và Thánh Lễ: 10 giờ 30 thứ Hai 26/01/2015 tại Nguyện Đường Nhà Hưu Dòng Tên, số 19 Đường 5, KP 2, Linh Trung, Thủ Đức, Tp HCM

- Nghi thức Động Quan: 7 giờ 30 sáng thứ Tư 28/01/2015

- Thánh Lễ An Táng: 08 giờ 00 sáng thứ Tư 28/01/2015 tại Nhà thờ Hiển Linh, số 19 Đường 5, KP 2, Linh Trung, Thủ Đức, Tp. HCM

- An Táng: tại nghĩa trang Đan Viện Biển Đức Thiên Bình, Long Thành, Đồng Nai

 
Văn Hóa
Cha thánh Gioan Don Bosco : Bạn thanh thiếu niên nghèo
Đinh Văn Tiến Hùng
10:59 28/01/2015
Cha Thánh GIOAN DON BOSCO: Bạn Thanh Thiếu Niên Nghèo

( Lễ kính 31/1 hằng năm )

“Các con hãy muốn điều tốt cho nhau như là anh em. Hãy làm điều tốt cho mọi người, nhưng không làm điều xấu cho ai cả. Hãy nói với các thanh thiếu niên điều này: Cha sẽ đợi tất cả trên Thiên Đàng.”

( Di ngôn của Cha Thánh Gioan Don Bosco )


Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi thề. Cậu cố gắng hết sức khuyên can chúng, nhưng chúng không nghe. Đột nhiên cậu thấy một người y phục trắng tinh tiến về phía cậu. Người ấy mỉm cười nói với cậu :

-Bằng tình yêu em sẽ biến chúng nên bạn hữu của em. Em sẽ chỉ cho chúng biết đời sống ngoan hiền.

-Nhưng thưa ông, cháu chỉ là một đứa trẻ nghèo nàn và dốt nát !

-Qua sự vâng lời và chăm chỉ học hành em sẽ làm được điều đó !

-Thưa ông, ông là ai ?

-Ta là Con Đức Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy em phải cầu nguyện với Người hằng ngày. Em hãy xin Mẹ Ta giúp đỡ !

Và ô kìa! Đức Mẹ xuất hiện với vẻ dịu hiền. Mẹ nói với Don Bosco :

-Con hãy nhìn xem !

Don Bosco theo tay Mẹ chỉ thấy một đoàn thú dữ. Đức Mẹ phán tiếp :

-Như Mẹ xử với các giống thú rừng này thế nào, con hãy theo đó mà xử với các trẻ em như vậy.

Tự nhiên bày thú dữ trở nên đàn chiên ngoan hiền, sẵn sàng chờ đợi chủ chiên dẫn ra đồng cỏ xanh tươi. Từ giấc chiêm bao đó cậu hiểu sứ mạng đời mình là phục vụ thanh thiếu niên…

Gioan Don Bosco sinh 16/8/1815 tại miền quê nước Ý, gần thành Turin, con một gia đình nông dân nghèo khó, mồ côi cha từ lúc 2 tuổi. Mẹ cậu phải vất vả nuôi dưỡng các con. Để giúp mẹ, cậu cũng phải vất vả làm việc nên bị thất học nhiều năm. Tuy nhiên với trí thông minh và tâm hồn đạo hạnh, cậu có nhiều phương cách để ngăn cản bạn bè làm điều mất lòng Chúa. Với một số tài khéo sẵn có, cậu lôi kéo sự chú ý của đám trẻ, rồi dần dần hướng dẫn tâm hồn chúng về điều hay lẽ phải.

Ngày kia, Don Bosco được mẹ dẫn đi coi xiệc. Cậu chăm chú ngắm nhìn những người biểu diễn, một ý tưởng đẹp đến với cậu. Khi về nhà cậu chăng sợi giây giữa hai thân cây, rồi tập đi trên sợi giây căng thẳng. Té lên té xuống, em cậu cười khúc khích, nhưng cậu nhất định không nản chí. Sau mỗi lần té nhào, cậu lại đọc 1 kinh Kính Mừng, rồi lại leo lên sợi giây tập tễnh đi tiếp. Thế mà chẳng bao lâu cậu có thể đi trên sợi giây cách dễ dàng.

Tập xong tài nghệ này, cậu lại tập sang tài nghệ khác của người làm xiệc. Cuối cùng, vào một tối Chúa Nhật , cậu mời một số người đến xem trình diễn. Họ ngạc nhiên thích thú, vỗ tay tán thưởng liên hồi. Nhưng ẩn sau cuộc giải trí lành mạnh đó, cậu còn có động lực khác thúc đẩy. Xen kẽ các tiết mục trình diễn tài nghệ, cậu hát những bài Thánh ca kính Đức Mẹ. Mọi người hiện diện đều hợp giọng thánh thót dâng vút trời cao. Thế rồi cậu hô hào mọi người :

-Nào, xin quí vị vui lòng cùng đọc kinh Mân Côi trong khi cháu trình diễn, nếu không cháu sẽ té nhào xuống đất bể đầu mất !

Họ nghe theo lời cậu và bắt đầu cầu nguyện. Cuối cuộc trình diễn, Don Bosco nhắc lại bài giảng của Cha xứ trong Thánh lễ sáng hôm đó. Mọi người ra về trong hân hoan.

Từ nhỏ, Don Bosco đã nuôi mộng trở thành Linh mục. Nhưng tự biết thân mình con nhà nghèo, nếu xin đi học, mẹ cậu sẽ phải vất và tần tiệm rất nhiều. Cậu không muốn mẹ phải hy sinh như thế, nhưng mẹ cậu là người tốt lành hiểu ý con. Bà nói đừng băn khoăn lo lắng về bà, nhưng hãy lo thực hiện điều Chúa muốn nơi cậu :

-Mẹ sinh ra nghèo khó, hiện sống túng nghèo và muốn chết trong nghèo hèn !

Kết quả, Don Bosco được nhập tiểu chủng viện lúc 16 tuổi. Trong đời chủng sinh bất kỳ lúc nào có giờ rảnh, cậu xin phép được tụ họp bọn trẻ mồ côi, rách rưới, rồi dẫn chúng ra đồi cỏ vui chơi và dạy giáo lý cho chúng.

Sau khi lãnh chức Linh Mục, Cha Don Bosco trở về làng dâng lễ mở tay. Cả làng, già trẻ lớn bé hớn hở đến dự lễ và chúc mừng Cha mới. Mẹ Tân Linh Mục mắt trào lệ lăn dài trên gò má. Còn niềm vui sướng nào sánh bằng mẹ thấy con bước lên bàn thánh dâng lên Thiên Chúa của Lễ Tình Yêu.( Người Mẹ nhân đức của Ngài là Margherita đã được ĐTC Benedict 16 phong Á Thánh ngày 23/10/2006).

Ngày 8/12/1841, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm , trẻ em đầu tiên tên Bartolomeo Garetti đến với Cha, rồi 3 hôm sau em dẫn thêm 9 em, 3 tháng sau đã có 25 em và 1 năm sau lên tới 80 em.

Thế là chẳng bao lâu sau, Cha Don Bosco đã có nhiều môn sinh gồm toàn những trẻ mồ côi, vất vưởng đầu đường xó chợ, không chốn nương thân. Chúa Nhật và các ngày lễ chúng quay quần bên Cha để dâng lễ, rồi xưng tội. Buổi chiều Cha dạy giáo lý cho chúng, cùng hát những bài Thánh ca. Mỗi ngày càng đông trẻ kéo đến bên Cha, khiến Cha phải lưu tâm tìm kiếm chỗ để dung nạp bọn trẻ. Chính mẹ Ngài cũng đến tiếp tay chăm sóc đoàn chiên nhỏ.

Trong cuộc đời, Cha Don Bosco sống như mọi người, không làm phép lạ, nhưng Chúa đã ban cho Cha một tâm hồn bao la như đại dương và ban ơn lành để hỗ trợ che chở Cha qua những gian nguy khốn khó. Một buổi tối Cha đang đi bách bộ một mình, đột nhiên 4 gã côn đồ bao vây Cha, cử chỉ hung hăng toan ám hại. Bỗng một con chó lạ xuất hiện từ bóng tối nhảy vào tấn công một tên côn đồ, ba tên kia sợ hãi bỏ chạy. Cha phải gọi con chó buông tha cho nạn nhân, rồi con chó lạ cùng Cha sánh bước về nhà. Nhưng đang đi bỗng con chó biến mất vào bóng đêm. Về sau, nhiều lần gặp nguy hiểm, chính con chó lạ này lại đến cứu mạng Cha. Nhưng tuyệt nhiên người ta không rõ nó từ đâu đến…

Ít năm sau, Cha Don Bosco thấy cần phải có một dòng tu để chuyên lo giáo dục cho bọn trẻ đáng thương, không những trong thành phố mình, mà còn cho đám trẻ bất hạnh khắp nơi trên thế giới. Cha bắt đầu lập dòng Salesien với chủ trương giáo dục thanh thiếu nhi bằng lối sống dịu hiền, tận tụy hy sinh. Cha khích lệ các em sống thân mật với Chúa qua lới cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các phép bí tích. Công trình vĩ đại của Cha lan rộng khắp nơi khiến mọi người cảm phục trước vẻ đơn sơ, nhân hậu, vui vẻ của Cha.

Sau những năm dài hy sinh tận tụy cho đoàn con xấu số, Cha Don Bosco ngã bệnh và qua đời ngày 31/1/1888, hưởng thọ 73 tuổi. Ngày Lễ Phục Sinh năm 1934, Đức Thánh Cha Piô XI phong Cha Gioan Don Bosco lên bậc Hiển Thánh.

Nhiều người rất tôn kính và hâm mộ nhân đức cùng tài năng của Cha Thánh Gioan Don Bosco,

nên nhận Ngài làm Quan Thày của nhà giáo, nhà báo, giới trẻ và ảo thuật gia.

Dòng do Thánh Gioan Don Bosco thành lập, gần Turin, nước Ý năm 1859, theo tinh thần của Thánh Phanxicô Salêsiô. Mục đích chính là giáo dục giới trẻ và huấn nghiệp. Dòng cũng tham gia tích cực vào việc truyền giáo và truyền thông xã hội.

Qui luật đời sống dòng được Đức Giáo Hoàng Piô IX phê chuẩn năm 1874. Thánh Don Bosco còn lập một dòng nữ có tên là Con Cái Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu tại Mornese Ý năm 1872.

Hội dòng chọn Thánh Francois de Sales làm bổn mạng và Thánh Don Bosco đặt tên cho các tu sĩ là Salesien- Lễ bổn mạng dòng mừng ngày 24/1 và Lễ Kính là ngày Thánh Don Bosco qua đời 31/1.

Châm ngôn dòng : “Xin cho con các linh hồn, mọi sự khác xin cứ lấy đi” diễn tả lý tưởng sống của Người Salesien.

Hoạt động trực tiếp vào giới trẻ qua các lãnh vực : ( Logo Don Bosco )

-Thành lập các nguyện xá và trung tâm sinh hoạt giới trẻ.

-Thành lập trường học đủ các cấp.

-Các trung tâm huấn nghệ và trường kỹ thuật.

-Các trường nội trú và trường cho các em nghèo khó, hè phố.

-Các trung tâm huấn giáo và mục vụ.

Ngày nay gia đình Salesien đang hoạt động trên 130 quốc gia với gần 20.000 hội viên gồm Tổng Giám Mục , Giám Mục, Linh Mục, Phó tế, Tu sĩ … Cuối đời Ngài đã đào tạo được 3000 Linh Mục và trẻ em đầu tiên tên Micae Rua đã trở thành Linh Mục dòng.

Tại Việt nam, số tu sĩ đang làm việc truyền giáo tại nhiều giáo phận với 11 cộng đoàn và 7 điểm hiện diện.

Trước năm 1975, những trung tâm nổi tiếng của Salesien cũng thường gọi là Foyer Don Bosco (Mái ấm Gia Đình) như Làng Don Bosco hay Trường Dạy nghề và Kỹ thuật Gò Vấp, Trường Nội trú Thủ Đức, Học viện Don Bosco Đà Lạt…

Nhân dịp kỷ niệm 150 thành lập Dòng và 200 năm ngày sinh của Thánh Gioan Don Bosco, Thánh Quan của Cha Thánh đã đến thăm 130 quốc gia và được cung nghinh tại nhiều Giáo Phận Việt Nam trong 2 tuần từ 16/I đến 1/2/2011. Đại diện Gia đình Salesien đã đón mừng Thánh Quan tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Suy niệm :

Thánh Gioan Don Bosco,
Cuộc đời nghèo khó không mơ sang giàu,
Nuôi trong tâm niệm từ lâu,
Dâng lên Thiên Chúa lời cầu thiết tha,
Tình yêu lý tưởng bao la,
Xót thương bao trẻ không nhà lang thang,
Đầu đường xó chợ ai màng,
Đem về Mái ấm rộn vang tiếng cười,
Dưỡng nuôi giáo dục nên người,
Mai sau hữu dụng cuộc đời đẹp tươi,
Nêu cao gương sáng cho đời,
Tâm niệm ghi khắc bao lời phúc ân,
Dù cho trời đất xoay vần,
Lời Cha khuyên dạy ân cần không quên.


ĐINH VĂN TIẾN HÙNG

(*) Tham khảo theo : Pocket Catholic Dictionary của Lm John A. Hardon, S.J. - Truyện các Thánh của Raymond Thư,CMC- Niên giám Giáo Hội Công Giáo. - Tổng Giáo phận Sàigòn.

 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cuối Năm Lên Chùa
Nguyễn Bá Khanh
22:07 28/01/2015
CUỐI NĂM LÊN CHÙA
Ảnh của Nguyễn Bá Khanh
Cuối năm lên chùa thắp nén hương
Cầu cho nhân thế bớt tai ương.
(bt )
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 22/01-28/01/2015: Câu chuyện những người làm vườn nho cho Chúa
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:45 28/01/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta tất cả mọi tội lỗi

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói xưng tội không phải là ra tòa nhưng là gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng tha thứ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, không trừ một tội nào. Đức Thánh Cha đã đưa ra nhận định này trong bài giảng Thánh Lễ sáng thứ Sáu 23 tháng Giêng tại nhà nguyện Santa Marta.

Dựa trên một đoạn trích từ thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái, Đức Giáo Hoàng nói Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta tất cả mọi tội lỗi, luôn luôn là như vậy và không có ngoại lệ nào. Ngài lại còn vui mừng khi có ai đó cầu xin Ngài tha thứ. Đức Thánh Cha nói thêm là Thiên Chúa, là Đấng hòa giải, đã chọn Chúa Giêsu để thiết lập một giao ước mới với nhân loại và nền tảng của giao ước này là sự tha thứ tội lỗi của chúng ta.

"Trước hết, Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Ngài không mệt mỏi về điều này. Chính chúng ta mới là những người cảm thấy mệt mỏi xin tha thứ. Còn Ngài thì không mệt mỏi thứ tha cho chúng ta. Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: ‘Con phải tha thứ bao nhiêu lần? Bảy lần được không?’ - ‘Không phải là bảy lần? nhưng là bảy mươi lần bảy’. Nghĩa là luôn luôn. Đó là cách Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta: luôn luôn. Nếu anh chị em đã sống một cuộc sống chồng chất bao nhiêu là tội lỗi, bao nhiêu là những điều xấu xa, nhưng cuối cùng trong một thoáng ăn năn, anh chị em cầu xin sự tha thứ, Ngài sẽ ngay lập tức thứ tha cho anh chị em! Ngài luôn luôn tha thứ cho chúng ta. "

Đức Thánh Cha cho biết một nỗi hoài nghi có thể ập đến trong con tim một người là Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta tới mức nào. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng tất cả những gì anh chị em phải làm là ăn năn và xin được tha thứ; và anh chị em không phải trả gì cả vì Chúa Kitô đã trả thay cho chúng ta.

"Không có tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ. Ngài tha thứ tất cả mọi thứ. ‘Nhưng mà thưa cha, con không đi xưng tội đâu vì con đã phạm quá nhiều những tội lỗi rất xấu xa, rất nhiều đến mức chắc là con không được tha thứ đâu....’ Không, điều đó không đúng sự thật. Ngài tha thứ tất cả mọi thứ. Nếu anh chị em ăn năn và đi xưng tội, Ngài sẽ tha thứ tất cả mọi thứ. Nhiều khi Ngài thậm chí không để cho anh chị em kịp nói đâu! Ngay khi anh chị em cầu xin được thứ tha thì Ngài đã để cho anh chị em cảm nhận được niềm vui được tha thứ ngay cả trước khi anh chị em xưng thú hết mọi tội. "

Tiếp theo, Đức Thánh Cha đã mô tả Thiên Chúa vui mừng ra sao khi có ai cầu xin được tha thứ và cùng lúc ấy Ngài "quên ngay" hay gạt ngay ra khỏi bộ nhớ của Ngài những tội lỗi của chúng ta. Đức Thánh Cha giải thích rằng đối với Thiên Chúa điều quan trọng là chúng ta gặp gỡ Ngài. Xưng tội không phải là ra tòa nhưng là gặp gỡ với Thiên Chúa.

"Xưng tội thường có vẻ giống như một thủ tục, một hình thức. Mọi thứ có vẻ máy móc! Đừng! Trong trường hợp như thế thì còn đâu cuộc gặp gỡ với Chúa, Đấng tha tội cho anh chị em, ôm anh chị em vào lòng và vui mừng? Và đây là Thiên Chúa của chúng ta Đấng lòng lành vô cùng. Vì thế, chúng ta cần phải dạy bảo nhau: dạy cho con em chúng ta, dạy cho những thanh niên thiếu nữ của chúng ta biết xưng tội cho nên, bởi vì đi xưng tội không phải là đi đến một tiệm giặt ủi để làm sạch một vết dơ. Không! Xưng tội là về gặp Cha Đấng hòa giải, Đấng tha thứ cho chúng ta, và vui mừng."

2. Chúa Giêsu vẫn đang cầu bầu cho chúng ta

Trình bày những suy tư của ngài về bài Phúc Âm trong ngày Thứ Năm Sau Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên 21 Tháng Giêng (Mc 3: 7-12), kể về đám đông dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu từ mọi miền, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng dân Chúa nhìn thấy nơi Chúa Giêsu "một niềm hy vọng, bởi vì cách ứng xử, và giảng dạy của Ngài chạm đến con tim của họ, đến tâm hồn họ, bởi vì giáo huấn của Ngài có sức mạnh của Lời Chúa ":

"Người dân cảm thấy điều này, và thấy rằng những lời hứa đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, và nơi Chúa Giêsu loé lên những tia hy vọng. Người dân đã có chút chán nản với cách giảng dạy đức tin của các nhà thông luật thời đó, là những người chồng chất trên vai người dân rất nhiều điều răn, rất nhiều giới luật, nhưng không chạm được đến con tim người dân. Và khi mọi người nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe những đề xuất của Ngài là Tám Mối Phúc Thật, họ cảm thấy một cái gì đó khuấy động bên trong - chính là Chúa Thánh Thần đang khuấy động tâm hồn họ. Và họ đi đến gặp Đức Giêsu"

Tìm kiếm Thiên Chúa với một ý định thanh khiết

Đám đông đến với Chúa Giêsu để được chữa lành: nghĩa là, họ tìm kiếm lợi ích riêng cho mình. "Không bao giờ chúng ta có thể theo Chúa với một ý định thanh khiết ngay từ đầu: bao giờ chúng ta cũng tìm kiếm Thiên Chúa vì một chút cho chúng ta, và một chút cho Thiên Chúa - và rồi chính cuộc hành trình sẽ thanh lọc ý định này. Mọi người ra đi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng họ cũng tìm Ngài vì sức khỏe của họ, vì muốn được chữa lành - và họ nhào đến Ngài, chạm vào Ngài, hy vọng rằng chút sức mạnh nào đó có thể phát ra từ Ngài và chữa lành cho họ."

Chúa Giêsu cứu rỗi chúng ta

Đức Thánh Cha giải thích rằng điều quan trọng nhất không phải là việc Chúa Giêsu chữa lành những bệnh tật phần xác cho chúng ta. Nhưng là điều sau đây: những sự chữa lành này là một dấu chỉ của một sự chữa lành khác. Cũng vậy, điều quan trọng nhất không phải là Chúa Giêsu nói những lời làm rung động con tim. Nhưng là vì những lời ấy giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa như đã được mô tả trong Thư gửi tín hữu Do Thái (7:25), "Chúa Giêsu có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ."

"Chúa Giêsu cứu chúng ta! Những sự chữa lành này, những lời đến được con tim này, là dấu chỉ và là khởi đầu của ơn cứu độ - là con đường cứu rỗi cho đông đảo những người bắt đầu đến nghe Chúa Giêsu, hoặc đến xin một sự chữa lành và sau đó trở lại với Ngài và cảm nhận được ơn cứu rỗi."

Đức Thánh Cha nêu câu hỏi là: "Tuy nhiên, điều gì là quan trọng nhất? Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật chăng? Không, đó không phải là điều quan trọng nhất. Hay là những lời Ngài dạy chúng ta chăng? Đó cũng không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là Ngài cứu rỗi chúng ta! Ngài là Cứu Chúa và chúng ta được Chúa cứu rỗi. Đây là điều quan trọng nhất, và đây là sức mạnh đức tin của chúng ta "

Chúa Giêsu cầu bầu cho chúng ta

Chúa Giêsu lên trời cùng Chúa Cha, "và từ đó Ngài tiếp tục cầu bầu, mỗi ngày, mỗi lúc cho chúng ta."

"Điều này liên quan với chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu đứng trước mặt Chúa Cha, hiến mạng sống của Người để cứu độ muôn dân – Ngài cho Chúa Cha thấy vết thương của Ngài như là giá cứu chuộc - và do đó, mỗi ngày, Chúa Giêsu đều cầu bầu cho chúng ta. Khi chúng ta, vì điều này điều khác vấp ngã, chúng ta hãy nhớ rằng chính Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho chúng ta, liên tục cầu bầu cho chúng ta. Quá thường khi chúng ta quên điều này và nghĩ rằng "Chúa Giêsu à ... nhưng mọi sự đã hoàn tất, Chúa đã lên trời rồi và gửi Thánh Thần Chúa đến cho chúng ta, hết chuyện rồi." Không! Ngay cả bây giờ, trong từng giây phút, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cầu bầu cho chúng ta. Ngài đang cầu thay cho tôi trong lời cầu nguyện này: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót con’. Hãy hướng về Chúa, và khẩn khoản xin lời cầu bầu này."

Sự "nhạy cảm" của dân Chúa

Chúng ta phải nhớ kỹ điểm chính yếu này là Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Đấng cầu bầu cho chúng ta. Đám đông tìm Chúa Giêsu với một hy vọng trực giác phù hợp với dân Chúa, là những người lúc đó đang trông chờ Đấng Mêsia, và họ tìm thấy nơi Ngài sức khỏe, sự thật, ơn cứu rỗi, vì Ngài là Đấng Cứu Độ và là Đấng Cứu Thế ngay cả bây giờ, tại thời điểm này, vẫn đang cầu thay cho chúng ta. Cầu xin cho cuộc sống Kitô của chúng ta ngày càng trở nên xác tín hơn rằng chúng ta được cứu rỗi, chúng ta có một Đấng Cứu Độ, Chúa Giêsu ngự bên phải Chúa Cha đang chuyển cầu cho chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần, làm cho chúng ta hiểu được những điều này."

3. Câu chuyện những người làm vườn nho cho Chúa

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Theo Chúa chúng ta được gì và mất gì? Đó là một câu hỏi đôi lúc vang lên trong lòng chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô ngày nay.

Đó cũng là câu hỏi đã khuấy động tâm hồn của các tông đồ, là những người đã được chính Chúa Giêsu chọn trên những nẻo đường rao giảng nước Thiên Chúa của Ngài.

Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Ðức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

"Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu".

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Đối với với những ai thật sự muốn theo Đức Giêsu, Ngài đều đặt họ vào một chọn lựa giữa Ngài với những đối tượng mà họ yêu quý, trân trọng nhất trên đời. Chỉ khi ta sẵn sàng chọn Ngài và sẵn sàng chấp nhận mất hay từ bỏ đối tượng ta vô cùng yêu quý kia, thì ta mới thật sự xứng danh theo Ngài.

Thật vậy, Ngài đòi hỏi ta phải quý Ngài hơn bất kỳ người nào, vật nào, cho dù ta có quý mến hay gắn bó người hay vật ấy tới đâu. Ngài nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37-38). Vì Ngài chính là kho báu hay viên ngọc quý mà Ngài nói đến trong dụ ngôn Mt 13,44-46: phải sẵn sàng bán hết tất cả mọi thứ mình có, thậm chí tới đồng xu cuối cùng, mới có thể mua được kho báu hay viên ngọc ấy.

“Sẵn sàng” ở đây là một thái độ tâm linh mà Ngài đòi hỏi tuyệt đối phải có; chứ trong thực tế, chẳng mấy khi Ngài bắt ta phải thật sự “bán hết” tất cả rồi mới đạt được Ngài. Thật vậy, khi ta đã có được thái độ sẵn sàng tuyệt đối ấy, lắm khi Ngài còn cho ta thêm gấp bội những gì ta đã có nữa: “Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30).

4. Cầu nguyện cho sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các Kitô hữu.

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua tại công trường thánh Phêrô Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ mọi người tiếp tục cầu nguyện và dấn thân cho sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các Kitô hữu.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn bài Phúc Âm thánh Marcô kể lại biến cố Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt. Chính trong lúc tiếng nói ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrốt dập tắt, Chúa Giêsu bắt đầu rong ruổi trên khắp mọi nẻo đường quê hương của Ngài để đem Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Việc loan báo của Chúa Giêsu cũng giống như việc loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả chỉ khác một điều là Chúa Giêsu không chỉ cho thấy một đấng khác phải tới nữa, bởi vì chính Ngài là sự thành toàn của các lời hứa, chính Ngài là Tin Mừng cần tin, tiếp nhận và thông truyền cho các người nam nữ thuộc mọi thời đại, để họ cũng tín thác cuộc sống cho Ngài.

Đức Thánh Cha nói:

Chính Chúa Giêsu là hiện thân Lời hằng sống và hoạt dộng trong lịch sử: ai lắng nghe Ngài và theo Ngài là bước vào Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là sự thành toàn các lời hứa của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Đấng trao ban cho con người Chúa Thánh Thần, nước hằng sống giải khát con tim bất an của chúng ta, khát sự sống, tình yêu, sự tự do, hòa bình: khát Thiên Chúa. Biết bao lần chúng ta cảm thấy hay đã cảm thấy con tim mình khát! Chính Chúa Giêsu đã vén mở cho người đàn bà xứ Samaria biết điều dó khi gặp bà bên bờ giếng Giacóp và nói với bà: “Xin cho tôi uống” (Ga 4,7). Chính các lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà xứ Samaria đã là đề tài của Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu kitô, kết thúc hôm nay. Chiều nay cùng với tín hữu giáo phận Roma và đại diện các Giáo Hội và cộng đoàn Giáo Hội khác nhau chúng ta sẽ tụ tập nhau trong Vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoại thành dể cùng nhau tha thiết cầu xin Chúa để Ngài củng cố nỗ lực của chúng ta cho sự hiệp nhất tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Thật là điều xấu, khi các kitô hữu chia rẽ nhau! Chúa Giêsu muốn chúng ta hiệp nhất: là một thân thể. Các tội lỗi của chúng ta, lịch sử, đã chia rẽ chúng ta, vì thế chúng ta phải cầu nguyện biết bao nhiêu để chính Chúa Thánh Thần tái hiệp nhất chúng ta.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Khi làm người Thiên Chúa đã lấy cái khát của chúng ta làm cái khát của Người, không phải chỉ khát nước vật chất, mà nhất là cái khát của một cuộc sống tràn đầy, tự do khỏi nô lệ sự dữ và cái chết. Đồng thời, với việc nhập thể Thiên Chúa đã đặt để cái khát đó trong trái tim một người là Đức Giêsu thành Nagiarét. Thiên Chúa khao khát chúng ta, khao khát trái tim của chúng ta, tình yêu của chúng ta và đã đặt sự khát khao đó trong trái tim của Chúa Giêsu. Như vậy, trong con tim của Chúa Kitô cái khát của Thiên Chúa và cái khát của con người gặp nhau. Và ước mong hiệp nhất các môn đệ Ngài thuộc cái khát này. Chúng ta thấy nó được diễn tả trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Để tất cả nên một” (Ga 17,21). Điều Chúa Giêsu muốn là sự hiệp nhất của tất cả. Ma qủy, chúng ta biết đấy, là cha của các chia rẽ, là một kẻ luôn luôn chia rẽ, luôn luôn gây chiến tranh, làm đau khổ biết bao. Rồi Đức Thánh Cha cầu mong như sau:

Ước chi cái khát này của Chúa Giêsu cũng luôn luôn trở thành cái khát của chúng ta!Vì thế chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện và dấn thấn cho sự hiệp nhất trọn vẹn của các môn đệ Chúa Kitô, trong niềm xác tín rằng chính Chúa ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ chúng ta với sức mạnh của Thần Khí Ngài để cho mục đích đó mau tới gần. Chúng ta hãy phó thác lời cầu này cho sự bầu cử hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội, để Mẹ hiệp nhất tất cả như một bà mẹ tốt lành.

5. Vai trò trước hết và trên hết của phụ nữ trong việc thông truyền đức tin

Vai trò chính yếu và không thể thiếu được của phụ nữ trong việc thông truyền đức tin cho các thế hệ trẻ là trọng tâm bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta vào sáng thứ Hai 26 tháng Giêng nhân lễ nhớ hai Thánh Timôthê và Titô - giám mục và là các môn đệ của Thánh Phaolô Tông Đồ. Đức Thánh Cha đã đặc biệt khai triển bức thư thứ hai của Thánh Phaolô gởi ông Timôthê.

Các bà mẹ và bà ngoại thông truyền đức tin

Thánh Phaolô nhắc nhớ là "đức tin chân thành" của Timôthê đến từ đâu: đức tin của người môn đệ ngài đến từ Chúa Thánh Thần, "qua mẹ và bà ngoại" của ông. Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp: "Mẹ và bà ngoại là những người [chủ yếu] thông truyền đức tin".

Có hai khía cạnh: một là truyền lại đức tin, hai là dạy dỗ những vấn đề đức tin. Đức tin là một ân sủng: người ta không thể nghiên cứu Đức tin. Chúng ta nghiên cứu những khiá cạnh của đức tin, đúng thế, để hiểu đức tin tốt hơn, nhưng chỉ nghiên cứu mà thôi ta sẽ không bao giờ đạt tới được đức tin. Đức tin là một ân sủng của Chúa Thánh Thần, vượt lên tất cả việc đào tạo mang tính"học thuật".

Đức tin, hơn thế nữa, là một ân sủng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thông qua các "công việc tốt đẹp của các bà mẹ và những người bà, và những công việc đẹp đẽ của những phụ nữ đóng những vai trò này" trong một gia đình", cho dù họ là người giúp việc hoặc cô dì," những người đang lưu truyền đức tin.

Câu hỏi được đặt ra là: tại sao những người thông truyền đức tin lại chủ yếu là những phụ nữ? Đơn giản bởi vì Đấng đã mang Chúa Giêsu đến cho chúng ta là một người phụ nữ. Đó là con đường đã được Chúa Giêsu lựa chọn. Ngài muốn có một người mẹ: hồng ân đức tin đến với chúng ta thông qua những người phụ nữ, như Đức Giêsu đã đến với chúng ta qua Đức Maria.

Trân trọng hồng ân đức tin để đức tin đừng lụi tàn

Đức Thánh Cha nhận xét rằng “Ngày nay, chúng ta cần xem xét liệu người phụ nữ có thực sự nhận thức được nghĩa vụ phải thông truyền đức tin của họ không." Thánh Phaolô mời gọi Timôthê hãy bảo vệ Đức tin, kho tàng Đức tin, tránh xa "thứ tranh luận ngoại giáo trống rỗng, thứ tranh luận rỗng tuếch của thế giới "

Đức Thánh Cha nói tiếp, "Chúng ta - tất cả chúng ta - đã nhận được hồng ân đức tin. Chúng ta phải giữ gìn nó, ít nhất là để nó không bị tàn lụi, để đức tin vẫn vững mạnh, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần là Đấng đã ban đức tin cho chúng ta". Chúng ta giữ vững đức tin bằng cách trân trọng và dưỡng nuôi nó mỗi ngày.

Nếu chúng ta không chăm sóc mỗi ngày, không linh hoạt hồng ân này của Thiên Chúa là Đức Tin, nhưng cứ để đức tin chúng ta suy yếu, tan loãng, thì kết cục đức tin chỉ còn là một thứ văn hóa: "Vâng, tôi là một Kitô hữu, đúng lắm "- nhưng chỉ là một thứ văn hóa –một kiến thức ngộ đạo, hay một dạng chuyên biệt của kiến thức:" Vâng, tôi biết rõ tất cả các khía cạnh của đức tin, tôi rành rẽ giáo lý'. Nhưng anh chị em sống đức tin của mình như thế nào? Như thế, điều trọng yếu là phải linh hoạt hồng ân này mỗi ngày: phải đưa nó vào cuộc sống.

Đức tin không thể gia tăng nếu ta nhút nhát và xấu hổ vì đức tin

Thánh Phaolô nói rằng có hai điều đặc biệt tương phản với một đức tin sống động: đó là "tinh thần hèn nhát và xấu hổ".

Thiên Chúa đã không ban cho chúng ta một tinh thần nhút nhát. Thái độ rụt rè đi ngược lại với hồng ân đức tin: nó không để cho đức tin phát triển, vươn lên, và lớn mạnh. Còn xấu hổ thì là tội lỗi sau đây, [chẳng hạn có người nói] "Vâng, tôi có đức tin, nhưng tôi che đậy nó, để người ta thấy chút chút thôi'. Một chút chỗ này, một chút chỗ kia - như các bậc tiền bối của chúng ta thường gọi là thứ đức tin "nước hoa hồng" - bởi vì tôi xấu hổ không dám sống đức tin mạnh mẽ. Không. Như thế không còn là Đức tin nữa: Đức tin không thể rụt rè cũng không thể xấu hổ. Vậy, đức tin là gì? Thưa, đó là một tinh thần mạnh mẽ, yêu thương, và khôn ngoan: đức tin là như thế"

Đức tin là không thể thương lượng

Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng tinh thần của sự khôn ngoan là biết rằng chúng ta không thể làm tất cả mọi thứ chúng ta muốn: nó có nghĩa là tìm kiếm những cách thế để thăng tiến đức tin một cách thận trọng.

Đức Thánh Cha kết luận rằng:

"Chúng ta cầu xin ân sủng của Chúa để chúng ta có thể có một đức tin chân thành, một đức tin không tương nhượng tùy theo những hoàn cảnh cụ thể, một đức tin được chúng ta linh hoạt mỗi ngày hay ít nhất là xin Chúa Thánh Thần linh hoạt nó cho chúng ta, và làm cho nó sinh nhiều hoa trái. "