Ngày 21-01-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:01 21/01/2018
38. TRA TẤN HOÀ THƯỢNG
Có một hoà thượng khuyên người ta giữ giới, nói:
- “Chỉ cần khảng khái tiếp tế cho chùa miếu, kính dâng phật tổ, thì sau khi chết có thể miễn cho khỏi xuống hoả ngục và khỏi tai nạn tra tấn.”
Không lâu sau đó, vị hoà thượng ấy và một thí chủ chết cùng một lúc. Hoà thượng thì bị nghiệp chướng nặng nề cho nên bị hình phạt cưa làm hai khúc trong âm phủ, thí chủ bèn hỏi ông ta duyên cớ tại sao.
Hoà thượng biện giải nói:
- “Anh không biết nguyên nhân ở bên trong đó thôi, là bởi vì Diêm La vương thấy người thế gian bỏ hư chùa miếu, hoà thượng thì ít thưa thớt, nên muốn chúng tôi một hoà thượng cưa hai để làm thành hai hoà thượng ấy mà !!”
(Hoa Diên Thú Lạc Đàm Tiếu Tửu Lệnh)

Suy tư 38:
Giáo dân đem tiền của vật chất dâng cúng cho nhà thờ thì có nhiều hạng người, nhưng có hai hạng người là đáng chú ý nhất:
Một là hạng người dâng cúng cho nhà thờ để lấy oai, loại này bắt cha sở phải làm theo ý mình, nghĩa là mình biểu phải sửa cái này phải mua thứ kia là cha sở phải mua thứ ấy, chứ không được làm gì khác ngoài ý muốn của họ; hai là hạng người dâng cúng cho nhà thờ để được ghi tên nơi tấm bảng đồng gắn bên bức tường cho mọi người thấy.
Dâng cúng cho nhà thờ cũng có nghĩa là dâng cúng cho Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì luôn nhìn thấy bên trong tâm hồn của người dâng cúng, còn cách thức dâng cúng, số lượng dâng cúng của họ thì Ngài “không thấy”, cho nên dâng cúng để làm oai và để được ghi tên nơi bảng đồng thì không có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa.
Người đàn bà goá nghèo trong Tin Mừng là một bài học cho chúng ta khi dâng cúng cho nhà thờ.
Nếu cha sở nào cũng làm theo ý người dâng cúng, thì không có ai đến dâng cúng, bởi vì những người nghèo sẽ không có cơ hội “bắt” cha sở làm theo ý của mình, hoặc nếu cha sở nào cũng muốn làm một bảng đồng để ghi tên những giáo dân dâng cúng nhiều tiền nhất, thì tấm bảng đồng ấy sẽ kết án cha sở và cha sở sẽ bị “cưa” làm hai, vì ngài làm nên cớ cho giáo dân trong họ đạo mất đoàn kết, và tự nó đã làm tăng thêm sự kiêu ngạo nơi những giáo dân dâng cúng nhiều tiền bạc vật chất nhất...
Việc dâng cúng với một tâm hồn khoe khoang kiêu ngạo thì đúng là con dao...ba lưỡi, một lưỡi đâm trước mặt giáo dân, một lưỡi đâm sau lưng cha sở và một lưỡi khác thì đâm chết linh hồn của mình.
Dễ sợ thay !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholicnews.com
http://nhantai.info
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 3 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:02 21/01/2018
Chúa Nhật 3 THƯỜNG NIÊN

Tin mừng: Mc 1, 14-20.
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”


Bạn thân mến,
Mục đích làm việc của bạn và tôi là để được có cơm ăn áo mặc, là để hy vọng góp phần làm đẹp xã hội, và cao quý hơn nữa là để có cơ hội giúp ích và phục vụ tha nhân trong hoàn cảnh cho phép. Đức Chúa Giê-su xuống thế làm người cũng có mục đích như chúng ta làm việc, tuy nhiên mục đích của Ngài vĩ đại hơn mục đích của chúng ta vạn phần, đó là để cứu chúng ta thoát khỏi sự chết và quyền lực của ma quỷ.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Chúa Giê-su là kêu gọi mọi người hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, Tin Mừng mà Ngài rao giảng chính là bản thân Ngài, bởi vì Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình nay đã xuất hiện giữa thế gian, bởi vì Ngài chính là tâm điểm của niềm hoan lạc vĩnh cửu nay đã hiện diện giữa loài người, cho nên tin vào Ngài, nghe lời Ngài và thực hành lời của Ngài thì đó chính là niềm vui của bạn và tôi, và của tất cả những ai thành tâm yêu mến Ngài.
Sám hối để được xót thương đó là thân phận tội lỗi của chúng ta, sự sám hối này không phải xuống sống Gio-đan để được ông Gioan Tẩy Giả dìm đầu trong nước, nhưng là tin vào Đức Chúa Giê-su, tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng và thành tâm làm theo thì sẽ được ơn cứu độ.
Bạn thân mến,
Bạn và tôi đã tin vào Đức Chúa Giê-su, tức là tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng, nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn tin vào báo chí hơn tin vào Phúc Âm, chúng ta vẫn tin vào truyền hình và những trang mạng xã hội (facebook) hơn tin vào các bí tích, chúng ta tin vào những xa hoa phù phiếm hơn tin vào những lời dạy và lễ nghi thánh thiện của Giáo Hội.v.v...
Bạn và tôi đều xác tín rằng, chỉ có Đức Chúa Giê-su mới thực sự là Đấng cứu độ nhân loại khỏi ách thống trị của ma quỷ, chỉ có Ngài mới cứu chúng ta khỏi xiếng xích của sa-tan mà thôi. Vì thế, dù cho cuộc sống có đảo điên, thời thế có xoay chuyển, đời người có chết đi, thì bạn và tôi cũng sẽ kiên trì bền chí tin vào Đức Chúa Giê-su và lời dạy của Ngài qua Giáo Hội Công Giáo mà Ngài đã lập ra ở thế gian này...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholicnews.com
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:07 21/01/2018

29. Kẻ thù luôn chuẩn bị lừa dối những người không bao giờ dùng sự cầu nguyện để tự vệ.

(Thánh Gioan Kim Khẩu)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa, trong "Cách ngôn thần học tu đức"

---------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholicnews.com
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn từ của Đức Thánh Cha với các linh mục, chủng sinh và tu sĩ nam nữ tại Trujillo
J.B. Đặng Minh An dịch
01:30 21/01/2018
Sáng thứ Bẩy, 20 tháng Giêng, lúc 7h40 Ðức Thánh Cha đã từ thủ đô Lima bay đến thành phố Trujillo cách đó 490 cây số về hướng bắc để cử hành thánh lễ lúc 10h tại quảng trường Huanchaco cạnh bờ biển.

Ban chiều, lúc 3h, ngài viếng nhà thờ chính tòa địa phương và gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh thuộc giáo tỉnh miền bắc Peru tại Chủng viện thánh Carlo và Marcelo vào lúc 3h30.

Theo thống kê do Văn phòng báo chí Tòa Thánh cung cấp, hiện tại có 3,361 linh mục ở Peru, 65 phó tế vĩnh viễn, 422 nam tu sĩ không có chức linh mục và 5,688 nữ tu.

Trong cuộc gặp gỡ này, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến:

Chào buổi trưa!

Tôi biết ơn những lời Đức Tổng Giám Mục José Antonio Eguren Anselmi của tổng giáo phận Piura chào mừng tôi thay mặt cho tất cả những anh chị em hiện diện nơi đây.

Gặp gỡ với anh chị em, tìm hiểu anh chị em, lắng nghe anh chị em và chia sẻ tình yêu của chúng ta đối với Chúa và đối với sứ mệnh mà Ngài đã ủy thác chúng ta là điều rất quan trọng đối với tôi. Tôi biết anh chị em đã phải nỗ lực rất lớn để có thể hiện diện nơi đây. Cảm ơn anh chị em!

Chủng viện đang chào đón chúng ta là một trong những chủng viện đầu tiên được thành lập ở Châu Mỹ La Tinh để đào tạo những thế hệ các nhà truyền giáo tương lai. Hiện diện cùng nhau tại nơi này làm cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một trong những “cái nôi” đã sản sinh ra cơ man các nhà truyền giáo. Tôi cũng không thể quên rằng Thánh Turibius thành Mogrovejo, là quan thầy của các giám mục châu Mỹ Latinh, đã chết nơi vùng đất này, trong lúc đang hoạt động truyền giáo. Tất cả những điều này mời gọi chúng ta hướng nhìn đến căn cội của mình, và đến những gì qua dòng thời gian và lịch sử cho phép chúng ta phát triển và sinh hoa trái. Ơn gọi của chúng ta sẽ luôn luôn có 2 chiều kích: căn cội dưới thế và tâm hồn trên trời. Khi một trong hai điều này bị đánh mất, một cái gì đó bắt đầu trở nên sai lầm và cuộc sống của chúng ta dần dần héo tàn (xem Lc 13: 6-9).

Tôi muốn chỉ ra rằng đức tin của chúng ta, ơn gọi của chúng ta, là một ký ức, một chiều kích “Đệ Nhị Luật” của cuộc sống. Là một ký ức, bởi vì ơn gọi của chúng ta nhìn nhận rằng chẳng có điều nào dù là sự sống, hay đức tin, hay Giáo hội bắt nguồn từ sự chào đời của bất kỳ một ai trong chúng ta. Ký ức nhìn đến quá khứ để khám phá ra nguồn mạch đã từng nuôi dưỡng con tim của các tông đồ qua nhiều thế kỷ, và do đó nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của dân Người. Chúng ta nhớ đến lời hứa Chúa ban cho tổ tiên của chúng ta, theo đó, nhờ sự hiện diện liên tục của Ngài giữa chúng ta, Ngài là căn nguyên của niềm vui khiến chúng ta mừng hát rằng: “Chúa đã làm cho chúng ta những điều vĩ đại; khiến chúng ta mừng rỡ hân hoan” (Tv 125: 3).

Tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số nhân đức của ký ức này.

Một tự nhận thức đầy hân hoan

Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe thường được đọc là một điểm then chốt của ơn gọi, trong đó chúng ta tập trung vào cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Giêsu. Tôi muốn quay trở lại trước đó và có một cái nhìn về Thánh Gioan Baotixita. Thánh nhân đang ở với hai môn đệ của mình, thì thấy Chúa Giêsu đi qua, Thánh nhân đã bảo họ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Khi nghe những lời này, họ đã bỏ Gioan và theo Chúa Giêsu (xem câu 37). Điều này hơi đáng ngạc nhiên vì họ đã ở với Gioan, họ biết rằng ông là một hiền nhân, và như Chúa Giêsu nói, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông (Mt 11:11), nhưng ông không phải là Đấng sẽ đến. Gioan đang đợi người cao trọng hơn mình. Ông hiểu rõ rằng ông không phải là Đấng Mết-si-a, mà chỉ đơn giản là người loan báo về sự xuất hiện của Đấng ấy. Gioan ghi nhớ; ông ý thức được lời hứa và vị thế của riêng mình trong lịch sử.

Gioan hiện thân cho nhận thức của một đệ biết rõ rằng mình không phải là Đấng Mê-si, và sẽ không bao giờ là Đấng ấy, nhưng chỉ là một người được mời gọi để chỉ ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của dân Ngài. Như những người nam nữ thánh hiến, chúng ta không được kêu gọi thay thế Chúa qua các công trình của chúng ta, qua sứ vụ của chúng ta, hoặc cơ man các hoạt động của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta được yêu cầu phải làm là làm việc với Chúa, sát cánh với Ngài, và không bao giờ được quên rằng chúng ta không thay thế cho Ngài. Điều này không làm cho chúng ta “ươn lười” trong sứ vụ phúc âm hoá; đúng hơn, nó thúc đẩy chúng ta làm việc với tất cả sự siêng năng hơn, và luôn ý thức rằng chúng ta là môn đệ của cùng một vị Thầy. Một môn đệ biết rằng mình đang ở đó, bây giờ và mãi mãi, để hỗ trợ cho Thầy mình. Đó là nguồn mạch vui mừng của chúng ta.

Thật tốt khi biết rằng chúng ta không phải là Đấng Mết-si-a! Điều đó giải phóng chúng ta khỏi tư duy cho rằng chúng ta quá quan trọng hoặc quá bận rộn (ở một số nơi, không phải là hiếm đâu, người ta nói: “Không, đừng đến giáo xứ đó vì cha xứ luôn rất bận!”). Thánh Gioan Tẩy Giả biết rằng nhiệm vụ của ngài là chỉ đường, là bắt đầu, là mở ra không gian, để tuyên bố rằng “một người khác” là người mang Chúa Thánh Linh đến. Trở nên một người biết ghi nhớ giải phóng chúng ta khỏi cám dỗ nghĩ rằng chúng ta là những Đấng Mết-si-a.

Chúng ta có thể chiến đấu với cám dỗ này bằng nhiều cách, cả bằng những tiếng cười. Vâng chính thế, học cách tự cười nhạo bản thân mình đem lại cho chúng ta khả năng tinh thần để đứng trước Chúa với những hạn chế của chúng ta, những lỗi lầm, tội lỗi của chúng ta, cũng như các thành công của chúng ta, cùng với niềm vui biết rằng Người đang ở bên chúng ta. Một trắc nghiệm tinh thần tốt là hãy tự hỏi mình xem liệu chúng ta có thể cười nhạo chính mình hay không. Tiếng cười cứu chúng ta khỏi “thuyết tự hấp thu Promethean neo-Pelagianism của những người cuối cùng chỉ tin tưởng vào năng lực của mình và cảm thấy mình ưu việt hơn những người khác” [1]. Anh chị em, hãy cười vang trong cộng đồng, chứ đừng cười vào mặt cộng đồng hay những người khác! Chúng ta hãy cảnh giác với những người quá quan trọng đến nỗi họ đã quên không biết làm sao mà cười trong cuộc sống của họ.

Thời điểm của lời mời gọi

Thánh Gioan Tông Đồ Thánh Sử đã đề cập đến trong Tin Mừng của ngài thời điểm đã thay đổi cuộc đời ngài: “khoảng chừng giờ thứ mười” (Ga 1:39). Một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của chúng ta, nó xác lập cái gì là “trước đó”, và cái gì là “sau đó”. Thật tốt là chúng ta luôn luôn ghi nhớ ngày, giờ đặc biệt này khi mỗi người chúng ta nhận ra rằng Chúa đã mong đợi điều gì đó nhiều hơn nơi chúng ta. Đó là ký ức về giờ khắc mà chúng ta đã rung động trước ánh mắt của Ngài.

Khi chúng ta quên giờ khắc đó, chúng ta quên nguồn gốc của mình, căn cội của chúng ta; và khi mất đi những tọa độ cơ bản này, chúng ta sẽ mất đi hình ảnh về những phần quý giá nhất trong đời sống của chúng ta như những người tận hiến: đó là ánh mắt của Chúa. Có lẽ anh chị em không thích nơi mà Chúa đã tìm thấy anh chị em, có lẽ đó không phải là một tình huống lý tưởng, hoặc “lẽ ra nó phải coi được hơn một chút”. Nhưng đó là nơi Chúa đã tìm thấy anh chị em và chữa lành những vết thương của anh chị em. Mỗi người trong chúng ta đều biết là ở đâu và khi nào: có thể đó là thời điểm xảy ra những tình huống phức tạp, hay những tình huống đau đớn; Vâng, nhưng chính ở đó Thiên Chúa của Sự Sống đã gặp anh chị em và làm cho anh chị em trở thành những nhân chứng cho Sự Sống của Người, biến anh chị em nên một phần trong sứ vụ của Người, và kết hợp với Người, để nên một sự vuốt ve của Thiên Chúa cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ kỹ rằng ơn gọi của chúng ta là một ơn gọi yêu thương, để đáp lại tình yêu và phục vụ. Nếu Chúa yêu anh chị em và chọn anh chị em, đó không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương anh em! (xem Đệ Nhị Luật 7: 7-8). Tình yêu của Chúa là một tình yêu nội tại, một tình yêu thương xót thúc đẩy chúng ta tận những chiều kích sâu thẳm, để chúng ta ra đi và phục vụ những người khác như Chúa Giêsu đã làm.

Tôi muốn nhấn mạnh một khía cạnh mà tôi cho là quan trọng. Nhiều người trong chúng ta, khi bước vào chủng viện hoặc một nơi đào tạo, đã được hun đúc bởi đức tin của gia đình và những người lân cận. Đây là cách chúng ta thực hiện các bước đi đầu tiên của chúng ta, đó là thường xuyên được nâng đỡ bởi những thể hiện của lòng đạo đức bình dân dưới những hình thức tinh tế nhất và có nguồn gốc sâu xa nơi những người dân đơn sơ và trung tín của Thiên Chúa ở Peru. Dân chúng đã thể hiện một lòng yêu mến bao la dành cho Chúa Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, các vị Thánh và các Chân Phước của anh chị em, trong cơ man những việc sùng kính mà tôi không dám nêu ra ở đây vì sợ bỏ sót một vài hình thức trong số đó. Trong những đền thờ của họ, “nhiều người hành hương đưa ra những quyết định có tính chất định đoạt cuộc đời họ. Các bức tường [của những đền thờ đó] chằng chịt biết bao những câu chuyện mà hàng triệu người đã kể về sự hoán cải, sự tha thứ và những ơn lành đã nhận được”. [2] Đối với nhiều người trong anh chị em, câu chuyện về ơn gọi của anh chị em cũng có thể được viết trên những bức tường đó. Tôi khuyên anh chị em không nên quên, hay xem thường đức tin kiên vững và đơn sơ của người dân anh chị em. Hãy chào đón, đồng hành và kích thích những cuộc gặp gỡ của họ với Chúa. Đừng trở thành “các chuyên gia về đàng thiêng liêng” bằng cách quên đi những người dân của anh chị em, từ trong số họ, Chúa đã chọn anh chị em. Đừng đánh mất ký ức của anh chị em và hãy tôn trọng những người đã từng dạy anh chị em biết cách cầu nguyện.

Nhớ lại khoảnh khắc chúng ta được gọi, vui mừng trước ký ức Chúa Kitô bước vào đời ta như thế nào, sẽ giúp chúng ta thốt lên lời cầu nguyện tuyệt vời của Thánh Francisco Solano, nhà truyền giáo vĩ đại và là bạn của người nghèo: “Lạy Chúa Giêsu nhân lành, Đấng Cứu Chuộc con và anh chị em con! Có cái gì con có đây, mà không phải là Chúa cho con? Có điều chi con biết, mà không phải là Chúa dạy cho con?”

Bằng cách này, một tu sĩ, một linh mục, một người nam nữ tận hiến là một người biết ghi nhớ, vui mừng và biết ơn: đó là ba điều chúng ta cần phải thủ đắc cho được và phải giữ kỹ như là ‘vũ khí’ chống lại mọi hình thức ơn gọi giả tạo. Ý thức biết ơn làm cho trái tim chúng ta lớn lên và truyền cảm hứng cho chúng ta phục vụ. Nếu không có lòng biết ơn, chúng ta có thể là những người giải quyết những vấn đề thiêng liêng một cách hiệu quả, nhưng chúng ta sẽ thiếu sự xức dầu của Thánh Linh để trở thành những tôi tớ của anh chị em chúng ta, đặc biệt là của những người cần chúng ta nhất. Dân trung tín của Thiên Chúa có một khướu giác giúp họ phân biệt được đâu là một công chức thiêng liêng và đâu là một tôi tớ đáng kính. Họ có thể phân biệt được người tử tế và kẻ vô tâm. Dân Thiên Chúa là bệnh nhân, nhưng họ biết ai phục vụ và chữa lành những vết thương của họ bằng dầu vui mừng và lòng biết ơn.

Niềm vui lây lan

Thánh Anrê là một trong những môn đồ của Thánh Gioan Tẩy Giả, người theo Chúa Giêsu ngày hôm đó. Sau khi dành thời gian với Chúa Giêsu và thấy nơi Người sống, anh trở về nhà anh mình là Si-môn Phêrô, và nói với anh mình: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mết-si-a” (Ga 1:41). Đó là tin tốt nhất anh ta có thể đưa đến cho anh mình, và tin ấy đưa người anh đến với Chúa Giêsu. Đức tin nơi Chúa Giêsu có tính lây lan; nó không thể bị hạn chế hoặc giữ kín bên trong. Ở đây, chúng ta thấy những chứng tá trở nên có hiệu quả như thế nào: các môn đồ mới được gọi sẽ tiếp tục thu hút những người khác bằng chứng tá đức tin của họ, như Chúa Giêsu, trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã gọi chúng ta qua những người khác. Sứ vụ này bùng lên một cách tự phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Thánh Anrê bắt đầu sứ vụ tông đồ của mình với những ai gần gũi với mình nhất, là anh trai Simon của mình, gần như một cách tự nhiên, bằng niềm vui rạng rỡ. Niềm vui là dấu hiệu chắc chắn nhất là chúng ta đã “khám phá ra” Đấng Mết-si-a. Niềm vui luôn hiện diện trong lòng các tông đồ, và chúng ta thấy niềm vui ấy nơi sự nhiệt thành khi Anrê nói với anh mình: “Chúng tôi đã tìm thấy Người!” Vì “niềm vui của Phúc Âm ngập tràn tâm hồn và cuộc sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận lời đề nghị cứu rỗi của Người thì được thoát khỏi tội lỗi, nỗi buồn, sự trống rỗng bên trong và sự cô đơn. Với Chúa Kitô, niềm vui thường xuyên được tái sinh” [3].

Niềm vui này mở lòng chúng ta ra cho tha nhân; đó là một niềm vui phải được chia sẻ. Trong một thế giới bị phân mảnh như thế giới chúng ta đang sống, một thế giới có thể khiến chúng ta rút lui, chúng ta được thách thức để trở thành những nhà xây dựng và các vị tiên tri của cộng đồng. Vì không ai được cứu riêng mình mà thôi. Tôi muốn nói rõ ràng về điều này. Sự phân mảnh hoặc cô lập không phải là những điều chỉ xảy ra “ở bên ngoài”, không phải chỉ là vấn đề của “thế gian”. Anh chị em ơi, những chia rẽ, chiến tranh, và sự cô lập được tìm thấy ngay trong những cộng đoàn chúng ta, và gây hại biết chừng nào! Chúa Giêsu sai chúng ta đi để xây dựng tình hiệp thông và sự hiệp nhất, nhưng thường thì dường như chúng ta thực thi điều này bằng cách phô bày cho thế gian thấy sự chia rẽ của chúng ta, và tệ hơn nữa, là cố gắng làm cho nhau sai lầm. Chúng ta được mời gọi trở thành những người xây dựng sự hiệp thông và hiệp nhất, nhưng điều này không có nghĩa là nghĩ rằng mọi người đều giống nhau hoặc phải hành động y chang như nhau. Nó có nghĩa là phân định mỗi người phải cống hiến những gì, trong khi tôn trọng sự khác biệt của họ, và thừa nhận có những đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, trong nhận thức rằng dù mỗi người chúng ta đóng góp những gì mình có, chúng ta vẫn phải cần đến nhau. Chỉ có Chúa mới có đầy đủ các ân sủng; chỉ có Chúa mới là Đấng Mết-si-a. Ngài muốn ban phát những ân sủng của mình theo cách mà chúng ta có thể cho đi những gì chúng ta có, trong khi được phong phú hóa bằng những thứ của người khác. Chúng ta phải cảnh giác trước sự cám dỗ là “đứa con duy nhất”, muốn mọi thứ cho riêng mình vì không có ai để chia sẻ với nó. Tôi xin những người trong anh chị em là những người có thẩm quyền: xin đừng trở thành người tự tham chiếu về chính mình. Hãy cố gắng chăm sóc anh chị em mình; cố gắng giữ cho họ được hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc là điều lây lan. Đừng rơi vào bẫy rập của một kẻ có quyền chạy theo chủ nghĩa độc tài và quên rằng sứ vụ của mình chủ yếu là một sứ vụ phục vụ.

Thưa anh chị em, tôi cảm ơn anh chị em một lần nữa. Cầu xin cho ký ức “Đệ Nhị Luật” này làm cho chúng ta vui vẻ hơn với lòng biết ơn được trở thành những người phục vụ cho tình hiệp nhất giữa dân ta.

Nguyện xin Chúa ban phép lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ phù hộ anh chị em. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.

[1] x. Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 94

[2] x. Phiên khoáng đại lần thứ 5 của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribê, Văn kiện Aparecida, ngày 29 tháng 6 năm 2007, trang 260.

[3] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 1


 
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong phụng vụ kính Ðức Mẹ Cửa Khẩu Otuzco 20/1/2018.
J.B. Đặng Minh An dịch
06:05 21/01/2018
Sáng thứ Bẩy, 20 tháng Giêng, lúc 7h40 Ðức Thánh Cha đã đáp máy bay từ thủ đô Lima đến thành phố Trujillo cách đó 490 cây số về hướng bắc để cử hành thánh lễ lúc 10h tại quảng trường Huanchaco cạnh bờ biển.

Ban chiều, lúc 3h, ngài viếng nhà thờ chính tòa địa phương và gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh thuộc giáo tỉnh miền bắc Peru tại Chủng viện thánh Carlo và Marcelo vào lúc 3h30.

Hơn một giờ sau đó, lúc 4h45, Ðức Thánh Cha chủ sự buổi cử hành phụng vụ kính Ðức Mẹ Hải Cảng ở quảng trường quân đội.

Trong bài giảng tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Tôi xin cảm tạ Đức Cha Héctor Miguel vì những lời chúc mừng của ngài nhân danh toàn thể dân Chúa hành hương trên những miền đất này.

Trong quảng trường xinh đẹp và lịch sử này của Trujillo, nơi từng đánh thức những giấc mơ tự do cho tất cả người Peru, hôm nay chúng ta tụ họp để gặp “Mẹ thân yêu của Otuzco”. Tôi biết rằng nhiều người trong số anh chị em đã phải đi một quãng đường dài để có mặt ngày hôm nay, tụ tập dưới ánh mắt của Mẹ. Quảng trường này đã trở thành một ngôi đền lộ thiên, nơi tất cả chúng ta muốn để cho Mẹ nhìn chúng ta bằng ánh mắt từ mẫu và dịu dàng. Mẹ là một người mẹ biết rõ con tim của những đứa con Peru của mình từ miền bắc đất nước và từ rất nhiều nơi khác; Mẹ đã nhìn thấy nước mắt của anh chị em, tiếng cười của anh chị em, và những ước vọng của anh chị em. Trong quảng trường này, chúng ta muốn vinh danh ký ức của một dân tộc biết rằng Đức Maria là một người Mẹ không từ bỏ con cái mình.

“Ngôi Nhà” này được trang trí theo một phong cách lễ hội đặc biệt. Chúng ta được bao quanh bởi hình ảnh các linh địa khắp miền này. Tôi nghiêm cẩn kính chào Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco, cùng với Thánh Giá Rất Thánh Chalpón miền Chiclayo, Chúa Phù Hộ các Tù Nhân miền Ayabaca, Đức Mẹ Giàu Lòng Xót Thương miền Paita, Chúa Giêsu Hài Đồng Ban Phép Lạ miền Eten, Đức Mẹ Sầu Bi miền Cajamarca, Đức Bà Lên Trời miền Cutervo, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội miền Chota, Đức Bà Đầy Ơn Phúc miền Huamachuco, Thánh Turibius thành Mogrovejo ở miền Tayabamba (Huamachuco), Đức Nữ Đồng Trinh miền Chachapoyas, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội miền Usquil, Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu miền Huanchoco, và di hài các Thánh Tử Đạo Dòng Anh Em Hèn Mọn miền Chimbote.

Mỗi cộng đồng, mỗi góc nhỏ bé của vùng đất này, đều được đi kèm với gương mặt của một vị thánh, và với tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Người. Thật thế, bất cứ nơi nào có một cộng đồng, bất cứ nơi nào có cuộc sống và những con tim mong muốn tìm được những lý do để hy vọng, để hát múa và nhảy mừng, để có một cuộc sống tốt đẹp... thì nơi đó có Chúa, nơi đó chúng ta tìm thấy Mẹ của Người, và ở đó cũng có gương của tất cả những vị thánh giúp chúng ta vui mừng trong hy vọng.

Cùng với anh chị em, tôi xin tán tụng Chúa vì Ngài đã ghé mắt nhìn chúng ta. Ngài tìm cách tốt nhất để lôi kéo đến gần Ngài mỗi người để họ có thể đón nhận Ngài. Đó là nguồn gốc của cơ man những lời cầu và danh xưng đa dạng của Ngài. Những danh xưng này thể hiện mong muốn của Thiên Chúa được gần gũi mỗi con tim, để ngôn ngữ tình yêu của Thiên Chúa luôn được nói bằng tiếng địa phương; không có cách nào khác để làm điều đó, và hơn thế nữa, điều ấy linh hứng cho hy vọng khi thấy Đức Mẹ dùng những đặc điểm của con cái mình, cách ăn mặc và phương ngữ của họ, để làm cho họ cùng chia sẻ trong phúc lành của Mẹ. Đức Maria sẽ luôn là một người Mẹ đa sắc tộc, bởi vì trong trái tim của Mẹ, tất cả các chủng tộc đều tìm thấy một chỗ cho mình, vì tình yêu tìm kiếm mọi cách để có thể yêu và được yêu. Tất cả những hình ảnh này nhắc nhở chúng ta về tình yêu từ ái mà với tình yêu đó Thiên Chúa muốn gần gũi với mọi làng mạc và mọi gia đình, với anh, với chị, với em, với tôi, và tất cả mọi người.

Tôi biết tình yêu mà anh chị em dành cho Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco. Hôm nay, cùng với các anh chị em, tôi muốn tuyên bố rằng Đức Mẹ Cửa Khẩu là “Mẹ thương xót và hy vọng”. Đức Mẹ, là Đấng trải qua nhiều thế kỷ đã cho thấy tình yêu của Mẹ dành cho những đứa con của mảnh đất này khi Mẹ được đặt tại một cửa ngõ, Mẹ đã bênh vực và bảo vệ họ trước những mối đe dọa, và đánh thức tình yêu của tất cả người Peru cả cho đến thời đại hôm nay của chúng ta.

Đức Maria tiếp tục bảo vệ chúng ta và chỉ ra cánh cổng mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến cuộc sống đích thực, đến Sự Sống không qua đi. Mẹ đi bên cạnh mỗi một người con của Mẹ, để dẫn họ về nhà. Mẹ đồng hành cùng chúng ta đến Cửa đem lại Sự Sống, vì Chúa Giêsu không muốn ai đứng ở ngoài, trong giá lạnh. Như thế, Mẹ tháp tùng “khát vọng của đông đảo những người muốn quay trở lại nhà Cha, Đấng đang chờ đợi sự trở lại của họ” [1], nhưng thường thì họ không biết phải làm sao. Như Thánh Bernard đã nói: “Bạn cảm thấy xa đất liền, bị nhận chìm bởi những đợt sóng của thế gian này, giữa chập chùng bão tố: hãy nhìn lên Ngôi sao và kêu khẩn cùng Đức Maria” [2]. Mẹ sẽ cho chúng ta thấy đường về nhà. Mẹ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, là Cổng Thương xót.

Năm 2015, chúng ta đã có niềm vui cử mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trong năm đó, tôi mời gọi tất cả các tín hữu đi qua Cửa Lòng Thương Xót, “qua đó bất kỳ ai bước vào sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, Đấng an ủi, tha thứ và gieo niềm hy vọng” [3]. Tôi muốn lặp lại với anh chị em lúc này đây cùng một niềm hy vọng ấy: “Tôi mong muốn xiết bao những năm tới sẽ được dâng lên cho lòng thương xót, để chúng ta có thể đi ra đến với mỗi người nam nữ, mang đến cho họ sự thiện hảo và dịu dàng của Thiên Chúa” [4] Tôi ước ao biết bao là mảnh đất này, nơi luôn gắn bó với Mẹ thương xót và hy vọng, có thể được dư dật những sự tốt lành của Thiên Chúa và tình yêu dịu dàng của Người và mang tình yêu ấy đi khắp nơi. Anh chị em thân mến, không có thuốc men nào tốt hơn có thể chữa nhiều vết thương cho bằng một con tim biết thương xót, một con tim từ bi trước những nỗi buồn và bất hạnh, một trái tim đầy thương xót trước những sai lầm của con người và ước vọng muốn thay đổi của họ, mà không biết bắt đầu từ đâu.

Lòng thương xót đang hoạt động, vì “chúng ta đã biết rằng Thiên Chúa cúi xuống vì chúng ta (xem Hôsê 11: 4), để chúng ta có thể bắt chước Người mà cúi xuống anh chị em mình”, [5] trước hết là cho những ai đang đau khổ nhất. Và giống như Đức Maria, chú tâm đến những ai thiếu rượu mừng, như đã xảy ra trong tiệc cưới Cana.

Hướng nhìn lên Đức Maria, tôi không muốn kết thúc ở đây mà không yêu cầu tất cả chúng ta hãy suy nghĩ về những bà mẹ và những bà nội, bà ngoại của đất nước này; họ là động lực thực sự cho cuộc sống và các gia đình Peru. Peru sẽ như thế nào, nếu không có những bà mẹ và những người bà! Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu không có họ! Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm thấy được sự trân trọng và lòng biết ơn đối với những người phụ nữ, những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là một pháo đài cho cuộc sống tại các thành phố của chúng ta. Gần như luôn im lặng, họ đưa cuộc sống tiến về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn chứng tá của các vị. Trân quý và tri ân. Nhưng khi suy nghĩ về những người mẹ và những người bà của chúng ta, tôi muốn mời anh chị em chống lại tai ương đang ảnh hưởng đến lục địa Mỹ Châu của chúng ta: nhiều trường hợp các phụ nữ đã bị giết. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ im lặng phía sau rất nhiều những bức tường. Tôi yêu cầu anh chị em chiến đấu chống lại nguồn đau khổ này bằng cách kêu gọi xây dựng pháp luật và một nền văn hoá phản đối mọi hình thức bạo lực.

Anh chị em thân mến, Đức Mẹ Cửa Khẩu, Mẹ Thương Xót và Niềm Hy vọng, chỉ cho chúng ta thấy con đường và chỉ ra cách phòng vệ tốt nhất chống lại cái ác của sự dửng dưng và vô cảm. Mẹ đưa chúng ta đến với Con Mẹ và khuyến khích chúng ta đề cao và truyền bá “một nền văn hoá thương xót dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ với tha nhân, một nền văn hoá mà không ai nhìn vào người khác với sự thờ ơ hoặc quay lưng đi trước những đau khổ của anh chị em mình”. [6]

[1] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[2] Bài Giảng sau Kinh Truyền Tin 17: PL 183, 70.
[3] Tông Chiếu Misericordiae Vultus (Khuôn Mặt Xót Thương) (ngày 11 tháng 4 năm 2015), số 3.
[4] thượng dẫn., 5.
[5] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[6] thượng dẫn., 20.


 
Đức Thánh Cha nguyện kinh với 500 nữ đan sĩ chiêm niệm Peru
Lm. Trần Đức Anh OP
10:28 21/01/2018
LIMA. Sáng Chúa Nhật 21-1-2017, ĐTC đã đến Đền Thánh Chúa làm phép lạ ở thủ đô Lima để nguyện kinh giờ nhỏ với khoảng 500 nữ tu chiêm niệm thuộc các đan viện ở Peru vào lúc 9 giờ 15.

Đền thánh này ở trung tâm lịch sử của thành Lima, dâng kính Bổn mạng của nước Peru là Chúa làm phép lạ. Đền thánh do các nữ đan sĩ Cát Minh nhặt phép coi sóc. Tại Đền thánh có bức bích họa Chúa Kitô chịu đóng đanh được vẽ trên tường hồi thế kỷ 17. Trận động đất dữ dội năm 1655 đã tàn phá bình địa phần lớn các dinh thự và nhà cửa ở Lima, nhưng bức tường có bức họa Chúa Kitô vẫn đứng nguyên. Cả những lần động đất sau đó cũng vậy. Các tín hữu rất sùng kính ảnh này và nhiều người được ơn lạ, phép lạ qua các thế kỷ. Vì thế, bích họa được đổi tên là ”Ảnh Chúa phép lạ”. Ngày nay ảnh được đặt trên bàn thờ chính của Đền Thánh Nazareno. Bản sao của ảnh này, mỗi năm được rước trong tháng 10 qua các đường phố ở Lima.

Khi ĐTC đến Đền thánh, 500 nữ đan sĩ chiêm niệm từ các nơi ở Peru đã tề tựu về đây để tham dự cuộc gặp gỡ với ĐTC. Ngài tiến lên bàn thờ và đứng cầu nguyện trong thinh lặng trước ảnh Chúa Phép Lạ.

Sau lời chào mừng của Mẹ Bề trên của các Đan sĩ cát minh nhặt phép ở Đền thánh, mọi người đã nguyện kinh giờ nhỏ.

Bài giảng của ĐTC

Giảng sau bài đọc ngắn (Rm 8,15-16), ĐTC nhấn mạnh chiều kích truyền giáo của kinh nguyện là nòng cốt đời sống chiêm niệm. Ngài nói:

”Kinh nguyện truyền giáo là kinh nguyện liên kết chúng ta với các anh chị em trong các hoàn cảnh khác nhau của họ và cầu nguyện để họ không bị thiếu tình yêu và hy vọng. Như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: Tôi hiểu rằng chỉ có tình yêu thúc đẩy các phần tử của Giáo hội hoạt động, và nếu tình yêu bị tắt lịm, thì các tông đồ sẽ không còn loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không đổ máu đào nữa. Tôi hiểu và biết rằng tình yêu gồm tóm nơi mình tất cả các ơn gọi, tình yêu là tất cả, trải rộng qua mọi thời đại và mọi nơi, tóm một lời, tình yêu là vĩnh cửu [..]. Trong con tim của Giáo hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu” (Thư gửi chị Maria Thánh Tâm, 8-9-1986: Thủ bản tự thuật, Ms B, [3v])

ĐTC giải thích rằng ”Là tình yêu! Là biết ở cạnh đau khổ của bao nhiêu anh chị em và nói như tác giả thánh vịnh: ”Trong nguy nan con đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, Chúa đã đáp lại, và đã cứu thoát con” (Tv 117,5). Vì thế, cuộc sống của chị em, trong đan viện, có được chiều kích truyền giáo và phổ quát, và có một ”vai trò cơ bản trong đời sống của Giáo Hội. Chị em hãy cầu nguyện và chuyển cầu cho bao nhiêu anh chị em đang bị cầm tù, cho người di dân, tị nạn và bị bách hại, cầu cho bao nhiêu gia đình bị thương tổn, cho những người không có công ăn việc làm, cho các bệnh nhân, cho các nạn nhân nghiện ngập, đó là một số hoàn cảnh cấp thiết nhất ngày nay. Chị em như những người đưa người bất toại đến trước Chúa để Ngài chữa lành” (Xc Mc 2,1-12). Qua kinh nguyện, ngày và đêm, chị em dẫn đến gần Chúa cuộc sống của bao nhiêu anh chị em, vì những hoàn cảnh khác nhau, không thể đến với Ngài để cảm nghiệm lòng thương xót chữa lành của Chúa, trong khi Chúa chờ đợi họ để ban ơn cho họ. Nhờ kinh nguyện, chị em có thể chữa lành những vết thương của bao nhiêu anh chị em” (Cost. ap. Vultum Dei quaerere, 16).

“Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng đời sống trong đan viện không cầm hãm cũng chẳng thu hẹp con tim, nhưng mở rộng nó nhờ tương quan với Chúa và làm cho nó có khả năng tái cảm thấy sự đau đớn, khổ sở, bất mãn, sự phiêu lưu của bao nhiêu anh chị em là nạn nhân của thứ văn hóa gạt bỏ của thời đại ngày nay. Ước gì sự chuyển cầu cho những người túng thiếu là đặc tính kinh nguyện của chị em. Và khi có thể, chị em hãy giúp đỡ họ không những bằng lời cầu nguyện, nhưng cả bằng sự trợ giúp cụ thể nữa.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nữ đan sĩ rằng: ”Chị em hãy dấn thân trong đời sống huynh đệ, làm sao để mỗi đan viện là một ngọn đèn pha có thể chiếu sáng giữa sự bất hòa và chia rẽ. Chị em hãy giúp nói lên rằng đó là điều có thể. Ước gì bất cứ ai đến gần chị em đều có thể nếm hưởng trước hạnh phúc do tình bác ái huynh đệ, như đặc tính riêng của đời sống thánh hiến và là điều rất cần trong thế giới ngày nay cũng như trong các cộng đoàn của chúng ta.

”Khi ta sống ơn gọi trong sự trung thành, thì cuộc sống trở thành lời loan báo Tình yêu của Thiên Chúa. Tôi xin chị em đừng bao giờ ngưng nêu chứng tá ấy. Trong nhà thờ này của các nữ tu Cát Minh Nhặt Phép Nazareno này, tôi mạn phép nhắc lại những lời của một bậc thầy về đời sống thiêng liêng, là thánh nữ Têrêsa Chúa Giêsu: ”Nếu chị em mất vị hướng đạo là Chúa Giêsu nhân lành, thì chị em sẽ không tìm được con đường [...] vì chính Chúa Giêsu đã nói Ngài là Đường, Chúa cũng nói Ngài là ánh sáng, và không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Ngài” (Lâu đài nội tâm, VI, c.7,6)

Cuối giờ kinh, ĐTC chào thăm riêng 6 vị Bề trên và Viện mẫu, trước khi đến đến viếng nhà thờ chính tòa thánh Gioan Tông Đồ và Thánh Sử của tổng giáo phận thủ đô Lima. Tại đây ngài cầu nguyện trước hài cốt các 5 vị thánh người Peru, trước khi gặp gỡ 60 vị thuộc HĐGM nước này, rồi chủ sự kinh truyền tin trưa Chúa Nhật với các tín hữu tại Quảng trường Quân đội trước nhà thờ. Ban chiều lúc 4 giờ, ĐTC đến căn cứ không quân Lima để cử hành thánh lễ rồi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma.
 
HĐGM Argentina chống giải thích sai trái về Đức Giáo Hoàng
Lm. Trần Đức Anh OP
12:59 21/01/2018
Hội Đồng GM Argentina chống giải thích sai trái về Đức Giáo Hoàng - AFP
BUENOS AIRES. HĐGM Argentina chống lại những người tự nhận là ”Phát ngôn viên” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Trong thông cáo công bố hôm 10-1-2017, sau khi bày tỏ niềm hãnh diện về ĐTC, về uy tín lớn lao của Người trên thế giới, Ban chấp hành HĐGM Argentina tố giác sự kiện phần lớn các cơ quan truyền thông tại nước này chú tâm vào những biến cố nhỏ mọn và đi tới độ đồng hóa ĐTC với một số nhân vật chính trị hoặc xã hội... Tình trạng này đã gây ra nhiều hoang mang và biện minh cho sự xuyên tạc đáng trách hình ảnh của ĐTC với những lời nói của Người, thậm chí đi tới sự lăng mạ và vu khống.

Các GM khẳng định rằng phần lớn nhân dân Argentina yêu mến ĐGH Phanxicô và không để mình bị hoang mang vì những kẻ lợi dụng Người, coi mình là đại diện của chính ĐGH, hoặc gán cho Ngừơi những lập trường tưởng tượng theo lợi lộc riêng tư phe phái của mình. Người dân thường muốn lắng nghe giáo huấn của ĐTC và nhận ra Người qua ngôn ngữ rõ ràng và đơn sơ. Đồng hành với các phong trào nhân dân trong cuộc chiến đòi ruộng đất, nhà ở và công ăn việc làm, đó là điều Giáo Hội vẫn luôn làm và ĐGH công khai cổ võ, mời gọi chúng ta lên tiếng cho những chính nghĩa của những người yếu thế nhất và bị gạt bỏ. Điều này không hề có nghĩa là người ta gán cho Người những lập trường hoặc hoạt động phe phái, dù đúng hay sai.

Thông cáo của Ban chấp hành HĐGM Argentina nhắc nhở rằng trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm sắp tới của ĐTC tại Chile và Perù, chúng tôi muốn tái khẳng định: ”không ai được nói thay ĐGH, ngoại trừ người phát ngôn chính thức được Người chỉ định. Không ai đã hoặc có thể nói nhân danh ĐTC. Sự đóng góp của Người cho đất nước chúng ta phải tìm trong giáo huấn dồi dào và trong những thói quen mục tử của Ngừơi, chứ không phải trong những giải thích thiên kiến và một chiều, chỉ làm cho sự chia rẽ giữa người Argentina sâu rộng thêm.

Và các GM Argentina kết luận rằng: ”Chúng tôi nồng nhiệt hy vọng ĐGH Phanxicô được coi trọng và lắng nghe như Người đáng được và như mọi người Argentina chúng ta đáng được”.

Theo báo chí, các GM Argentina đưa ra thông cáo trên đây sau vụ những lời tuyên bố của Juan Grabois đưa ra trong một tờ báo tự nhận những lời nói và lập trường của ông ”phản ánh tư tưởng chính trị của ĐGH Phanxicô”.

Grabois năm nay 34 tuổi, con của một lãnh tụ đảng Peronist, đã thành lập Phong trào các công nhân và những người bị loại trừ và ngày nay đang điều khiển Liên đoàn công nhân kinh tế nhân dân. Dư luận coi ông rất gần gũi với ĐHY Jorge Bergoglio, khi ngài còn là TGM Buenos Aires từ năm 2005.

Dư luận tại Argentina hiện nay cũng rất chia rẽ, với những tranh luận sôi nổi về chính trị hơn là tôn giáo. Có những người tự nhận mình theo lập trường của ĐGH Phanxicô hoặc được ngài ủng hộ. Báo chí cho rằng dường như để tránh gia tăng những chia rẽ đó, nên ngài chưa về thăm quê hương Argentina. (Rei 11-1-2018)
 
Diễn văn của Đức Phanxicô với các nhà cầm quyền Peru và ngoại giao đoàn
Vũ Văn An
18:40 21/01/2018
‘Việc xuống cấp của môi trường, buồn thay, không thể tách biệt khỏi việc xuống cấp về luân lý của các cộng đồng ta.’

Theo tin Zenit, ngày 19 tháng 1, 2018, Đức Phanxicô đã gặp gỡ các nhà cầm quyền Peru và ngoại giao đoàn và đã đọc trước họ một bài diễn văn thúc giục họ lưu ý tới giới trẻ trong việc xây dựng tương lai. Ngài cũng cảnh cáo chống lại tham nhũng và việc hủy hoại môi trường.

Cuộc gặp gỡ trên diễn ra 1 ngày sau khi Đức Phanxicô nói chuyện với các dân tộc bản địa vùng Amazon và giới trẻ tại một nhà dành cho các trẻ em bị bỏ rơi.

Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của ngài với các nhà cầm quyền Peru và ngoại giao đoàn ngày 19 tháng 1 năm 2018, dịch theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.

***

Kính thưa Tổng thống,

Các Thành Viên Chính Phủ và Ngoại Giao Đoàn

Quý Nhà Cầm Quyền

Quý Đại Diện Xã Hội Dân Sự

Thưa Quý Bà và Qúy Ông, Các Bạn Thân Mến,

Khi đến tòa nhà lịch sử này, tôi cảm ơn Thiên Chúa đã cho tôi cơ hội được hiện diện trên đất nước Peru. Tôi muốn các lời lẽ của tôi là một thông điệp chào hỏi và qúy mến đối với mỗi người con trai và con gái của dân tộc này, một dân tộc mà trong các năm qua đã bảo tồn và làm phong phú túi khôn đã được truyền lại từ tổ tiên và thực sự đại diện cho một trong những di sản lớn nhất của mình.

Tôi xin cảm ơn ông Pedro Pablo Kuczynsky, Tổng thống của Quốc gia, vì lời mời của ông đến thăm đất nước và vì lời chào mừng của ông nhân danh qúy vị.

Chuyến thăm Peru của tôi có chủ đề: "Hợp nhất bởi hy vọng". Nếu tôi có thể nói như vậy, là vì nhìn đất nườc này tự nó đã là một lý do để hy vọng rồi. Một phần lãnh thổ của qúy vị bao gồm Amazon, nơi tôi đã viếng thăm sáng nay. Đây là rừng nhiệt đới lớn nhất và là hệ thống sông rộng lớn nhất hành tinh. "Lá phổi" này, như nó vốn được gọi, là một trong những khu vực đa dạng sinh học lớn lao trên thế giới, vì nó là nơi sinh sống của rất nhiều chủng loại khác nhau.

Qúy vị cũng giàu có và đa dạng về các nền văn hoá, những nền văn hóa ngày một hòa hợp tương giao và tạo nên linh hồn của dân tộc này. Đó là một linh hồn được đặc trưng hóa bởi các giá trị tổ tiên như lòng hiếu khách, lòng qúy mến người khác, lòng tôn trọng và biết ơn đối với mẹ đất và tính sáng tạo ra nhiều sáng kiến mới. Nó cũng nổi bật trong cảm thức về trách nhiệm chung đối với việc phát triển mọi người, cùng nhau liên đới, một sự liên đới thường thấy trong đáp ứng của qúy vị đối với các thiên tai khác nhau mà qúy vị từng trải qua.

Về phương diện này, tôi muốn hướng về giới trẻ. Họ là những hồng phúc chủ yếu nhất mà xã hội này sở hữu. Với sự năng động và sự nhiệt tình của họ, họ hứa hẹn và khuyến khích chúng ta mơ ước một tương lai đầy hy vọng, phát sinh từ cuộc gặp gỡ giữa túi khôn cao quí của tổ tiên và những con mắt mới mẻ của giới trẻ. Tôi cũng rất vui đối với thực tế lịch sử: đó là niềm hy vọng kia ở đất nước này có khuôn mặt của sự thánh thiện. Peru đã sinh ra các vị thánh làm rạng rỡ những con đường đức tin cho toàn bộ lục địa Mỹ Châu. Chỉ xin đơn cử một vị, Thánh Martin de Porres, người con trai của hai nền văn hóa, cho thấy sức mạnh và sự phong phú sẽ đến khi người ta tập chú vào tình yêu. Tôi có thể tiếp tục nói dài hơn danh sách các lý do, cả vật chất lẫn tinh thần, để hy vọng. Peru là một lãnh thổ của hy vọng, mời gọi và thách thức người dân của nó hợp nhất. Giữa nhiều điều khác, dân tộc này có nghĩa vụ duy trì sự hợp nhất, chính là để bảo vệ tất cả các lý do để hy vọng này.

Thế nhưng, trên niềm hy vọng này, một bóng tối đang lan rộng, một đe dọa đang lộ diện. "Không bao giờ nhân loại lại có cái sức mạnh như thế trên mình, thế nhưng không có gì đảm bảo nó sẽ được sử dụng một cách khôn ngoan, đặc biệt khi chúng ta xem xét việc nó hiện đang được sử dụng như thế nào" (Laudato Si, 104). Điều này hiển nhiên trong cách chúng ta đang lột bỏ khỏi trái đất các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó, mà nếu không có chúng, không hình thức sống nào có thể có cả. Việc để mất các rừng thưa và rừng rậm không chỉ có nghĩa mất mát các chủng loại vốn cũng là những nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tương lai mà còn mất mát các mối liên hệ sinh tử kết cục làm thay đổi toàn bộ hệ sinh thái (xem đã dẫn, 32).

Trong bối cảnh này, "thống nhất để bảo vệ hy vọng" có nghĩa là cổ vũ và phát triển một hệ sinh thái toàn diện thay thế cho "một mô hình phát triển đã lỗi thời vốn tiếp tục tạo ra sự suy thoái của con người, của xã hội và môi trường" (Thông điệp Urbi et Orbi, Lễ Giáng Sinh 2017 ). Điều này kêu gọi phải lắng nghe các con người và các dân tộc địa phương, thừa nhận và tôn trọng họ như những đối tác đối thoại giá trị. Họ duy trì mối liên kết trực tiếp với đất đai, họ biết thời gian và phương cách của nó, và do đó họ biết các hậu quả thảm khốc được tạo ra, nhân danh phát triển, bởi nhiều dự án. Cơ cấu chủ yếu tạo nên quốc gia đang bị thay đổi. Sự suy thoái của môi trường, buồn thay, không thể tách rời khỏi sự suy thoái luân lý của các cộng đồng chúng ta. Chúng ta không thể nghĩ về chúng như hai thực tế tách biệt.

Ví dụ, khai thác mỏ kiểu chợ đen đã trở thành mối nguy hiểm đang hủy hoại cuộc sống của người dân; rừng và sông đang bị phá hủy, với tất cả sự phong phú của chúng. Toàn bộ quá trình suy thoái này mang theo nó và khuyến khích các tổ chức hoạt động ngoài cơ cấu pháp lý; chúng làm rất nhiều anh chị em của chúng ta mất phẩm giá bằng cách bắt họ chịu cảnh buôn bán người (hình thức nô lệ mới), việc làm thất thường và tội phạm... và nhiều tệ nạn khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến phẩm giá của họ, đồng thời phẩm giá của quốc gia. Cùng nhau làm việc để bảo vệ hy vọng đòi chúng ta hết sức chú ý tới một hình thức suy thoái môi trường khác, thường rất tinh vi, ngày càng làm ô nhiễm toàn bộ hệ thống sự sống: tham nhũng. Không biết bao nhiêu sự ác đã được thực hiện cho nhân dân Châu Mỹ Latinh và các nền dân chủ của lục địa này vì thứ "siêu vi khuẩn" xã hội đó, một hiện tượng đang lây nhiễm mọi thứ, mà thiệt hại lớn nhất là đối với người nghèo và mẹ đất.

Tất cả mọi thứ đang được thực hiện để chống lại tai hoạ xã hội này đáng được chúng ta lưu ý và giúp đỡ tối đa. .. Đây là một cuộc chiến đấu liên quan đến mọi người chúng ta. "Hợp nhất để bảo vệ hy vọng" đòi một nền văn hóa trong sáng hơn nơi các thực thể công cộng, khu vực tư và xã hội dân sự. Không ai có thể bị loại ra ngoài diễn trình này. Tham nhũng là điều có thể ngăn ngừa được và kêu gọi sự cam kết nơi mọi người.

Tôi khuyến khích và thúc giục tất cả những ai đang nắm giữ các chức vụ có quyền hành, trong bất cứ lĩnh vực nào, nhấn mạnh tới con đường này để mang lại cho dân tộc và đất nước của qúy vị sự an ninh phát sinh ra từ cảm quan cho rằng Peru là nơi của hy vọng và cơ hội cho mọi người, chứ không chỉ cho một thiểu số. Bằng cách này, mọi người dân Peru có thể cảm nhận được rằng đất nước này là của họ, ở đây họ có thể liên hệ huynh đệ và bình đẳng với những người lân cận của họ và giúp đỡ người khác trong lúc họ thiếu thốn. Một lãnh thổ nơi họ có thể thể hiện tương lai của chính họ. Và theo cách này, tạo ra một Peru đủ chỗ cho mọi người thuộc "mọi dòng máu" (José María Arguedas, Todas las sangres, Buenos Aires, 1964), một lãnh thổ trong đó "lời hứa cuộc sống Peru" (Jorge Basadre, La promesa de lavida peruana, Lima, 1958) có thể đạt được.

Trước sự hiện diện của qúy vị, tôi muốn tái khẳng định cam kết của Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội vốn đồng hành với đời sống của quốc gia này, trong nỗ lực chung tiếp tục làm việc để Peru tiếp tục là một lãnh thổ hy vọng. Xin Thánh Rosa thành Lima cầu bầu cho mỗi người trong qúy vị và cho quốc gia được chúc phúc này.

Cảm ơn qúy vị một lần nữa.

 
Đức Phanxicô cử hành Thánh Lễ tại Lima, nguyên văn bài giảng của ngài
Vũ Văn An
21:44 21/01/2018


“Chúa Giêsu tiếp tục bước trên các đường phố của chúng ta.”

Theo tin Zenit, ngày 21 tháng 1, 2018, ngày đầy đủ cuối cùng của ngài tại Peru, Đức Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ ngoài trời tại Căn Cứ Không Quân Las Palmas ỏ Lima, Thủ Đô Peru. Người ta ước lượng có khoảng 1 triệu 300 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ này, dưới sức nắng như thiêu như đốt đến nỗi lính cứu hỏa phải xịt nuớc vào đám đông.

Trong bài giảng lễ, trích bài đọc Tin Mừng nói về Tiên Tri Giôna, ngài cảnh cáo rằng dôi khi chúng ta khổ vì đức tin của vị tiên tri này, ngài gọi nó là “hội chứng Giôna”.

Sau đây là nguyên văn bài giảng lễ của ngài, theo bản tiếng Anh của Tòa Thánh:

Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-ve, thành lớn đó, và rao truyền cho họ sứ điệp mà ta nói cho ngươi" (Gn 3: 2). Với những lời này, Chúa đã nói với Giôna và ra lệnh cho ông đến thành phố vĩ đại đó, nơi sẽ bị hủy diêt vì nhiều tệ nạn của nó. Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu lên đường về hướng Galilê để rao giảng Tin Mừng (xem Mc 1:14). Cả hai bài đọc đều cho thấy một vị Thiên Chúa hướng cái nhìn của Người về các thành phố trong quá khứ và hiện tại. Chúa muốn khởi đầu một cuộc hành trình: đến Ninive, đến Galilê, đến Lima, đến Trujillo và Puerto Maldonado. .. Chúa đến đây. Người đang đi vào lịch sử cá nhân, cụ thể của chúng ta. Chúng ta đã cử hành việc này cách đây không lâu: Người là Emmanuel, là Thiên Chúa muốn ở với chúng ta mãi mãi. Vâng, ở đây, ở Lima, hoặc bất cứ nơi nào anh chị em đang sống, trong cảnh thường lệ của cuộc sống và việc làm hàng ngày, trong việc giáo dục lòng hy vọng mà anh chị em muốn trao ban cho con cái anh chị em, giữa nhiều hoài vọng và lo lắng của mình; trong cảnh riêng tư của gia đình và trong tiếng ồn ào điếc tai của các đường phố. Chính ở đó, dọc theo những con đường bụi bặm của lịch sử, Chúa đến để gặp mỗi người trong anh chị em.

Đôi khi điều xảy ra cho Giôna cũng có thể xảy ra với chúng ta. Các thành phố của chúng ta, với những tình huống đau đớn và bất công hàng ngày, có thể khiến chúng ta bị cám dỗ chạy trốn, ẩn nấp, trốn chạy. Giô-na, và chúng ta có nhiều lý lẽ viện ra để làm như vậy. Nhìn vào thành phố, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách nói rằng có "những công dân tìm được phương tiện thỏa đáng để phát triển cuộc sống cá nhân và gia đình của họ - điều đó làm chúng ta hài lòng - nhưng vấn đề là nhiều "người không phải là công dân", chỉ "nửa công dân" hay "tàn dư đô thị" [1]. Ta tìm thấy họ dọc theo lề đường của chúng ta, sống ở rìa các thành phố của chúng ta, và thiếu các điều kiện cần thiết cho một cuộc sống có nhân phẩm. Thật đau buồn khi hiểu ra rằng trong số những "tàn dư đô thị" này, chúng ta rất thường thấy các khuôn mặt của trẻ em và thiếu niên. Chúng ta đang nhìn gương mặt của tương lai.

Nhìn thấy những điều trên trong các thành phố và các vùng lân cận của chúng ta, nơi nên là những chỗ để gặp gỡ, để liên đới và hân hoan - kết cục, chúng ta lại phải gặp điều chúng ta có thể gọi là hội chứng Giôna: chúng ta nản lòng và muốn chạy trốn (xem Gn 1: 3). Chúng ta trở nên thờ ơ, và do đó, dấu tên và điếc tai với người khác, lạnh lùng và cứng lòng. Khi điều này xảy ra, chúng ta làm tổn thương linh hồn của dân tộc ta. Như Đức Bênêđíctô XVI đã chỉ ra, "thước đo thực sự của lòng nhân ái, về cơ bản, được xác định qua mối liên hệ giữa đau khổ và người đau khổ. .. Xã hội nào không thể chấp nhận các thành viên đau khổ của mình và không có khả năng giúp chia sẻ nỗi đau khổ của họ và chịu đựng sự đau khổ này từ bên trong nhờ ‘lòng cảm thương’ là một xã hội tàn nhẫn và vô nhân đạo”. [2]

Sau khi họ bắt giam Gioan, Chúa Giêsu đi Galilê để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Không giống như Giôna, Chúa Giêsu đã phản ứng trước các tin tức gây buồn phiền và bất công về việc bắt giam Gioan bằng cách đi vào thành phố; Người bước vào Galilê và từ các thị trấn nhỏ của nó, Người bắt đầu gieo những hạt giống của niềm hy vọng lớn lao: là Nước Trời đang đến gần, là Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Chính Tin Mừng cho chúng ta thấy niềm vui và ảnh hưởng lan toả của nó: nó bắt đầu với Simong và Anrê, sau đó là Giacôbê và Gioan (xem Mc 1: 14-20). Sau đó nó đi qua Thánh Rosa thành Lima, ThánhTuribius, Thánh Martin de Porres, Thánh Juan Macías, Thánh Francisco Solano, xuống đến chúng ta, được công bố bởi đoàn chứng nhân đã tin vào Người. Nó đã đến với chúng ta để hành động một lần nữa như một thứ thuốc giải độc kịp thời cho việc hoàn cầu hóa lòng thờ ơ. Đứng trước Tình Yêu đó, người ta không thể thờ ơ được.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Người cảm nghiệm ngay lúc này hương vị của vĩnh cửu: tình yêu của Thiên Chúa và người lân cận. Người làm điều này cách duy nhất Người có thể làm, là cách của Thiên Chúa, bằng cách đánh thức lòng âu yếm và tình yêu thương xót, bằng cách đánh thức lòng cảm thương và mở mắt để họ nhìn thực tại như Thiên Chúa nhìn. Người mời gọi họ tạo ra những dây liên kết mới, những giao ước mới phong phú trong cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Giêsu đi xuyên qua thành phố cùng các môn đồ và bắt đầu thấy, nghe, để ý những người đã đầu hàng trước sự thờ ơ, bị đè bẹp bởi tội tham nhũng trầm trọng. Người bắt đầu đưa ra ánh sáng nhiều tình huống vốn giết chết hy vọng của dân tộc Người và để đánh thức một niềm hy vọng mới. Người kêu gọi các môn đệ của Người và mời họ cùng đi với Người. Người kêu gọi họ đi xuyên qua thành phố, nhưng với một nhịp độ khác; Người dạy họ để ý những gì họ đã từng bỏ qua trước đây, và Người chỉ ra những nhu cầu mới và cấp thiết. Hãy ăn năn, Người nói với họ. Nước Trời nghĩa là tìm nơi Chúa Giêsu một Thiên Chúa chịu can dự vào cuộc sống của dân Người. Người can dự và làm người khác can dự để họ không sợ biến lịch sử của chúng ta thành một lịch sử cứu độ (xem Mc 1:15, 21).

Chúa Giêsu tiếp tục bước trên đường phố của chúng ta. Như Người đã làm hôm qua, hôm nay, Người gõ cửa và trái tim chúng ta, để khơi lên ngọn lửa hy vọng và hoài vọng rằng tan vỡ có thể được vượt qua bằng tình huynh đệ, bất công bị đánh bại bởi tình liên đới, bạo lực bị im tiếng bởi các vũ khí hòa bình. Chúa Giêsu tiếp tục kêu gọi chúng ta; Người muốn xức dầu cho chúng ta bằng Thần Khí để cả chúng ta nữa cũng có thể ra đi xức dầu cho những người khác bằng dầu có khả năng chữa lành các niềm hy vọng đã bị thương tổn và đổi mới cách nhìn sự vật của chúng ta.

Chúa Giêsu tiếp tục bước và đánh thức hy vọng, một niềm hy vọng giải thoát chúng ta khỏi những hiệp hội trống rỗng và những phân tích vô ngã. Người khuyến khích chúng ta, như men bột, bước vào nơi chúng ta đang hiện diện, nơi chúng ta đang sống, vào mọi ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nước Trời đang ở giữa anh chị em, Người nói với chúng ta như thế. Nó ở đó, bất cứ khi nào chúng ta không sợ tạo không gian cho người mù nhìn thấy, cho người bị liệt bước đi, cho người phong cùi được lành sạch và người điếc được nghe (xem Lc 7:22) để tất cả những người mà chúng ta đã bỏ cuộc coi như mất có thể được hưởng sự phục sinh. Thiên Chúa sẽ không bao giờ mệt mỏi ra ngoài để gặp các con cái của Người. Làm thế nào chúng ta đốt lên ngọn lửa hy vọng nếu thiếu các tiên tri? Làm sao chúng ta đối mặt được với tương lai nếu thiếu sự hợp nhất? Làm thế nào Chúa Giêsu đến được tất cả các ngóc ngách này nếu thiếu các nhân chứng táo bạo và can đảm?

Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người trong anh chị em cùng đi với Người trong thành phố, trong thành phố của anh chị em. Người mời gọi anh chị em trở thành môn đệ truyền giáo của Người để anh chị em có thể trở nên một phần của lời thì thầm tuyệt vời muốn tiếp tục vang vọng trong những ngóc ngách khác nhau của cuộc sống chúng ta: Hãy vui mừng, Chúa ở với anh chị em!

[1] Tông huấn Evangelii Gaudium, 74.

[2] Thông điệp Spe Salvi, 38.



© Librera Editrice Vatican

 
Diễn từ của Đức Thánh Cha với các Giám Mục Peru Chúa Nhật 21/1/2018
J.B. Đặng Minh An dịch
22:05 21/01/2018
Tất cả các sinh hoạt của Đức Thánh Cha trong ngày Chúa Nhật 21 tháng Giêng đã diễn ra trong phạm vi thủ đô Lima.

Ban sáng, Ðức Thánh Cha chủ sự kinh giờ nhỏ vào lúc 9h15 với các nữ tu chiêm niệm ở Ðền Thánh Chúa làm phép lạ.

Lúc 10h30, Đức Thánh Cha kính viếng hài cốt các thánh người Peru tại nhà thờ chính tòa Lima, rồi ngài gặp gỡ các Giám Mục Chí Lợi tại tòa Tổng Giám Mục địa phương, trước khi chủ sự kinh Truyền Tin lúc 12h với các tín hữu.

Trong diễn từ với các Giám Mục, Đức Thánh Cha nói:


Các hiền huynh Giám Mục thân mến,

Tôi cám ơn những lời tốt đẹp Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Lima và cũng là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục gởi đến tôi đại diện cho tất cả các hiền huynh hiện diện nơi đây. Tôi đã mong đợi được ở đây với các hiền huynh. Tôi nhớ lại với niềm vui chuyến thăm ad-limina năm ngoái của các hiền huynh.

Những ngày tôi trải qua với các hiền huynh thật rất là nồng nhiệt và đáng hài lòng. Tôi đã có thể học hỏi và trải nghiệm những thực tại khác nhau hình thành nên những vùng đất này và có thể chia sẻ tận mắt niềm tin của người dân thánh thiện và trung thành của Chúa, điều đó làm cho chúng ta phấn chấn. Cảm ơn các hiền huynh đã cho tôi cơ hội “đụng chạm” đến niềm tin của dân Chúa đã được giao phó cho các hiền huynh.

Chủ đề của chuyến tông du này nói với chúng ta về sự hiệp nhất và hy vọng. Đây là một chương trình đầy thách thức nhưng thú vị, làm chúng ta nghĩ đến những thành quả anh hùng của Thánh Turibius thành Mogrovejo, từng là Tổng Giám Mục của Tòa này và cũng là quan thầy của các giám mục Mỹ Latinh, đó là một gương sáng của một “người xây dựng tình hiệp nhất giáo hội”, như người tiền nhiệm của tôi, là Thánh Gioan Phaolô II đã mô tả về ngài trong lần tông du đầu tiên đến vùng đất này. [1]

Điều đáng nói là vị thánh quan thầy này thường được mô tả như một “Môsê mới”. Như các hiền huynh đã biết, Vatican có một bức tranh trong đó Thánh Turibius đang vượt qua một con sông lớn, và nước mở ra trước mắt ngài như Biển Đỏ, để ngài có thể đi đến bờ bên kia, nơi một nhóm người bản địa đang chờ đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibius là một đoàn lũ đông đảo, đại diện cho dân trung tín, những người đi theo vị mục tử của họ trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. [2] Hình ảnh đẹp này có thể đóng vai trò là một chiếc neo trong suy tư của tôi với các hiền huynh. Thánh Turibius, là người đàn ông muốn đến bờ bên kia.

Chúng ta quan sát ngài từ lúc ngài chấp nhận nhiệm vụ đến vùng đất này với sứ mệnh là một người cha và một mục tử. Ngài bỏ lại sau lưng sự an toàn của môi trường quen thuộc xung quanh để bước vào một vũ trụ hoàn toàn mới, chưa biết và đầy những thách thức. Ngài đã tiến đến một vùng đất hứa được hướng dẫn bởi đức tin như một “bảo chứng cho những điều mong đợi” (Dt 11: 1). Niềm tin của ngài và lòng trông cậy của ngài vào Chúa đã thúc đẩy ngài, và suốt cả cuộc đời còn lại của ngài, để sang bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài ở giữa đám đông.

1. Ngài muốn đến bờ bên kia để tìm kiếm người xa đàn chiên và lạc lối. Để làm như vậy, ngài phải để lại đằng sau sự thoải mái của tòa giám mục và dọc ngang trên lãnh thổ được ủy thác cho ngài trong các chuyến viếng thăm mục vụ liên tục; ngài đã cố gắng đến thăm bất cứ nơi nào cần đến ngài, và họ cần ngài biết ngần nào! Ngài ra ngoài để gặp gỡ mọi người, theo những con đường mà theo lời người thư ký của ngài, được dành cho dê hơn là cho người. Thánh Turibius đã phải đối mặt với những thay đổi rất nhiều về khí hậu và địa hình, “trong hai mươi hai năm giám mục của ngài, 18 năm ngài đã trải qua bên ngoài thành phố, ba năm lang thang suốt dọc dài lãnh thổ của mình” [3] Ngài biết rằng đây là cách duy nhất để trở thành một mục tử: đó là gần gũi với đàn chiên của mình, ban phát các phép bí tích, và ngài thường xuyên khích lệ các linh mục mình làm như vậy. Ngài đã làm như thế không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chứng tá của ngài trên tuyến đầu của việc loan báo Tin Mừng. Theo kiểu ngày nay, ta sẽ gọi ngài là một giám mục “đường phố”. Một giám mục có đôi giày mòn lẳng vì lang thang, di hành liên tục, tiến ra để “rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người: mọi nơi, mọi lúc, không do dự, miễn cưỡng; vì niềm vui của Phúc Âm là dành cho mọi người: không ai có thể bị loại trừ”. [4]. Thánh Turibius biết rõ điều này biết là ngần nào! Không sợ hãi và không do dự, ngài đắm mình trong lục địa của chúng ta để loan báo tin vui.

2. Ngài muốn đến bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về mặt văn hoá. Thành thử, ngài đã cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có thể truyền bá Tin Mừng bằng ngôn ngữ bản địa. Với Công Đồng Thứ Ba của Lima, ngài đã chuẩn bị để các sách giáo lý được biên soạn và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo phẩm học ngôn ngữ của đàn chiên của họ để có thể ban phát các bí tích cho họ theo một cách thức mà họ có thể hiểu được. Khi thăm và sống với dân mình, ngài nhận ra rằng hiện diện về thể chất thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải học cách nói ngôn ngữ của người khác, chỉ bằng cách này Phúc Âm mới có thể được hiểu và làm rung động được những con tim. Tầm nhìn này cần thiết cho chúng ta, là những mục tử của thế kỷ 21 này, biết bao! Chúng ta cần phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới chẳng hạn như những ngôn ngữ thời kỹ thuật số để hiểu được ngôn ngữ thực sự của những người trẻ, gia đình, và con cái chúng ta... Như Thánh Turibius đã nhận ra một cách rõ ràng, có mặt và chiếm một khoảng không gian thôi thì không đủ; chúng ta phải có khả năng tạo ra các quy trình trong cuộc sống của người dân để đức tin của họ có thể bắt rễ và có ý nghĩa đối với họ. Và để làm điều đó, chúng ta phải có thể nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta cần phải đến những nơi có những câu chuyện và mô hình mới đang được nảy sinh để mang lời Chúa Giêsu đến tận trung tâm của các thành phố và các dân tộc của chúng ta. [5] Phúc âm hóa văn hoá đòi hỏi chúng ta phải đi vào trái tim của chính nền văn hoá đó để nó có thể được chiếu sáng từ bên trong bởi Tin Mừng.

3. Thánh Turibius muốn đến bờ bên kia của lòng bác ái. Đối với vị quan thầy của chúng ta, không thể có phúc âm hóa mà không có những công việc bác ái. Ngài biết rằng hình thức phúc âm hóa tối cao nhất chính là mô hình hóa sự tự hiến của Chúa Giêsu Kitô nơi chính cuộc sống của chúng ta, vì tình yêu đối với mọi người nam nữ. Cứ dấu này người ta nhận ra đâu là con cái Thiên Chúa và đâu là con cái của ma quỷ: tất cả những ai không thực hành công lý thì không đến từ Thiên Chúa, và những người không yêu mến anh chị em của mình cũng không đến từ Thiên Chúa (xem 1Ga 3:10). Trong những lần thăm viếng của mình, ngài đã có thể nhìn thấy những lạm dụng và gánh nặng mà các dân tộc đã phải chịu đựng, và vì thế vào năm 1585, không chút sợ hãi, ngài đã ra vạ tuyệt thông cho quận công Corregidor miền Cajatambo, đặt mình vào vị thế chống lại toàn bộ hệ thống tham nhũng và một mạng lưới lợi nhuận, “thu hút về phía mình sự thù hằn của bao nhiêu người”, bao gồm cả viên Thái Thú [6]. Như vậy, chúng ta thấy, người mục tử phải biết rằng lợi ích siêu nhiên không bao giờ có thể được tách rời khỏi những thiện ích vật chất, và đặc biệt là khi sự liêm chính và phẩm giá của con người gặp nguy cơ. Tính chất tiên tri trong tinh thần của một giám mục phải là: không sợ tố cáo những lạm dụng và dã man đối với dân của chúng ta. Bằng cách này, Thánh Turibius nhắc nhở toàn thể xã hội, và mỗi cộng đồng, rằng lòng bác ái phải luôn đi kèm với công lý. Và rằng không thể có một cuộc phúc âm hoá chân chính mà không chỉ ra và tố cáo mọi tội lỗi chống lại cuộc sống của anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người rốt nhất

4. Ngài muốn đến bờ bên kia trong việc đào tạo các linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên sau Công Đồng Tridentinô ở phần đất này của thế giới, nhờ đó ngài đẩy mạnh việc đào tạo các giáo sĩ địa phương. Ngài nhận ra rằng viếng thăm mọi nơi và nói cùng ngôn ngữ với người dân cũng chưa đủ đâu: Giáo Hội cần phải nuôi nấng những mục tử địa phương của mình và trở nên một người mẹ hiền. Để đạt được mục đích này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho những thổ dân – là một vấn đề gây tranh cãi vào thời điểm đó - và tìm cách làm cho người khác thấy rằng nếu cần phải có sự đa dạng trong hàng giáo sĩ ở mọi khu vực, thì sự đa dạng ấy phải dựa trên sự thánh thiện chứ không phải là nguồn gốc chủng tộc của họ [7]. Việc đào tạo này không chỉ dừng lại ở khuôn viên các chủng viện mà còn được tiếp tục qua những chuyến viếng thăm liên tục của ngài. Ở đó, ngài có thể nhìn thấy “tình trạng của các linh mục của mình” và bày tỏ sự quan tâm của ngài đối với họ. Chuyện kể rằng vào đêm Giáng sinh, em gái ngài tặng cho ngài một chiếc áo sơ mi để ngài có thể mặc trong dịp lễ. Cùng ngày đó, ngài đi thăm một linh mục, và nhìn thấy điều kiện sống của vị linh mục ấy, ngài cởi ngay chiếc áo sơ mi mới tinh và tặng cho vị này. [8] Ngài là mục tử biết đàn chiên của mình. Một mục tử cố gắng thăm họ, đồng hành với họ, khuyến khích họ và khuyên bảo họ. Ngài nhắc nhở các linh mục của mình rằng họ là các mục tử, chứ không phải người bán hàng, và vì vậy họ phải chăm sóc và bảo vệ người dân như con cái mình [9]. Tuy nhiên, ngài đã không làm điều này từ bàn làm việc, và vì thế ngài biết những con chiên của mình và họ cũng nhận ra giọng nói của vị mục tử của họ.

5. Ngài muốn đến bờ bên kia của sự hiệp nhất. Trong một cách đáng khâm phục và đầy tính tiên tri, ngài hoạt động để mở ra khả năng hiệp thông và dự phần giữa các thành viên khác nhau của dân Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc đến điều này khi nói chuyện với các giám mục ở vùng đất này. Ngài lưu ý rằng: “Công Đồng thứ ba của Lima là kết quả của nỗ lực do Thánh Turibius hướng dẫn, khuyến khích và chỉ đạo; nó đem lại kết quả là một sự phong phú tình hiệp nhất trong đức tin, các tiêu chuẩn mục vụ và tổ chức, và những hiểu biết hữu ích cho sự hội nhập hằng được mong muốn của Mỹ Latinh “[10]. Chúng ta biết rất rõ rằng tình hiệp nhất và sự đồng thuận này đã ngoi lên được từ những căng thẳng và xung đột. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có xung đột. Tuy nhiên, chúng đòi hỏi chúng ta, nếu chúng ta là những người đàn ông và những Kitô hữu, phải dám đối mặt với chúng và đối phó với chúng. Nhưng phải đối phó với chúng trong tinh thần liên đới, đối thoại chân thành và thẳng thắn, mặt đối mặt, cẩn thận để không bị cám dỗ để lờ đi quá khứ, hoặc giam hãm mình trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để có thể phân định được đâu là những nẻo đường hiệp nhất và hòa bình. Một nguồn động viên, trong cuộc hành trình của chúng ta như là một Hội Đồng Giám Mục, đó là biết rằng sự hiệp nhất sẽ luôn luôn chiếm ưu thế hơn [11] Các hiền huynh thân mến, hãy hoạt động cho tình hiệp nhất. Không nên cứ mãi là những tù nhân của những chia rẽ đang tạo ra những bè phái và cản trở ơn gọi của chúng ta là trở nên một bí tích hiệp thông. Hãy nhớ rằng: điều thu hút của Giáo Hội tiên khởi chính là các Kitô hữu yêu thương nhau. Đó là - và luôn luôn là - cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng.

6. Đã đến lúc Thánh Turibius lên bờ cuối cùng, đến vùng đất mà ngài đã nhiều lần nếm trước trên tất cả các bờ biển mà ngài đã bỏ lại sau lưng. Lần này, tuy nhiên, ngài không cô đơn. Như trong bức tranh mà tôi đã đề cập trước đây, ngài đã đi gặp các thánh bao quanh bởi một đoàn lũ thật đông đảo. Ngài là một mục tử chất đầy “túi xách của mình” với những tên và khuôn mặt. Họ là hộ chiếu của ngài để lên trời. Tôi không muốn vượt qua giai điệu cuối cùng này, là thời điểm khi vị mục tử trao phó linh hồn mình cho Chúa. Ngài đã ra đi giữa dân mình, và một người bản xứ đã hát một bài hát bằng chiếc tù và của mình để linh hồn người mục tử của anh cảm thấy bình an. Các anh em, xin cho khi chúng ta thực hiện cuộc hành trình cuối cùng này của mình, chúng ta cũng có thể có cùng trải nghiệm này. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta điều này [12]

Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.

[1] Diễn từ trước các Giám mục Peru (2 tháng 2 năm 1985), đoạn 3.
[2] x. Phép lạ của Thánh Turibius, Vatican Pinacoteca.
[3] Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Bài giảng Thánh Lễ, Aparecida (16 tháng 5 năm 2007).
[4] Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 23.
[5] X. thượng dẫn., 74.
[6] x. Ernesto Rojas Ingunza, El Perú de los Santos, Kathy Perales Ysla (biên soạn), Cinco Santos del Perú. Vida, obra y tiempo, Lima (2016), 57.
[7] x. Joséantonio Benito Rodríguez, Santo Toribio de Mogrovejo, Kathy Perales Ysla (ed.), Cinco Santos del Perú. Vida, obra y tiempo, Lima (2016), 178.
[8] x. thượng dẫn, 180.


 
Văn Hóa
Tản mạn đời tha hương : Tuyết Lạnh Nơi Xứ Người
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
08:40 21/01/2018

Mùa đông của ai ?



Nhạc sĩ Trần thiện Thanh đã sáng tác bài ‘Mùa đông của anh’ rất nổi tiếng. Lúc bấy giờ tại Việt Nam chẳng mấy ai nghĩ chuyện nước mình có tuyết lạnh làm giá băng tâm hồn ai cả. Thật ra tác giả khéo léo tả rằng vì phải xa người yêu, nàng thấy tâm hồn lạnh cóng, nên sống như kẻ điên (không biết nhớ) và người say (không biết buồn). Và rồi khi nhớ về nàng, chàng gọi nàng là ‘Mùa đông của anh’, và mượn lời nàng để tuyên bố “Tình băng giá là đình đẹp trên thế gian”. Quả là lãng mạn cách lạ thường !

Bỏ vùng nhiệt đới qua định cư tại mấy xứ ôn đới này, mỗi độ đông về là bà con mình lo thủ áo ấm mệt nghỉ. Các cô chú bên Canada hãnh diện đang sống tại chốn ‘xứ lạnh tình nồng’ Nghe chừng an ủi dữ ! Nhưng lâu lâu gặp phải hoàn cảnh tình chẳng nồng tí nào, ai ai đó thấy buồn ra mặt. Tại Mỹ, cứ tới khoảng tháng chạp, sở khí tượng thời tiết thường báo tin đe dọa “Năm tay mùa đông sẽ lạnh hơn năm ngoái, và bão tuyết sẽ gây nhiều khó khăn, bà con nên chuẩn bị tinh thần…” Đặc biệt các cộng đồng Việt Nam miền đông bắc năm nào cũng một phen hồi hộp ! Có thể đổi bài ca của TTThanh ra là ‘Mùa đông của chúng ta’ ?

Tại vùng trời này, thời tiết phân ra 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông rõ rệt. Cảnh vật và đất trời thay đổi rõ rệt. Vui thật đó, nhưng cũng nhiêu khê lắm. Ngoài cái mục 2 lần ‘đổi giờ’ hàng năm từng làm bà con mình dễ rối đầu, quên vặn lại đồng hồ, người ta còn phải điều chỉnh lại lắm thứ trong nhà ngoài ngõ. Mùa đông đã lạnh lại còn nhiều mưa, vườn cây sân cỏ vì thế mà phải đổi thay chuyện chăm sóc hàng ngày. Nhất là cơn ‘gió bấc heo may’ thổi về đem theo mùa ‘cúm’ mỗi năm. Không cẩn thận là toi mạng như chơi, nhất là giới già cao niên.

Chuyện nhức đầu khá lớn cho bà con ta là phải lái xe giữa trời đất đầy tuyết phủ. Nha lộ vận năm nào cũng nhắc nhở cư dân trước hết phải lo ‘tu bổ’ xe cộ khi sắp tới mùa băng tuyết. Xe nằm đường như chơi ! Tính mạng dễ bị đe dọa khi phải ‘pic nic’ ngoài trời vài ngày ! Riêng mấy gia đình không có ga-ra mái che, chuyện xúc tuyết mỗi buổi sáng để nổ máy đi làm cũng là cả một gánh nặng, đòi kiên nhẫn và khéo léo. Dịp này giúp cho mấy tay thợ ‘mechanic’ tha hồ kiếm bạc, qua dịch vụ ‘tune-up’ xe khách hàng: thắng, dầu mỡ, bánh xe, bình điện, gạt nước, máy sưởi…Nhiều ngày cảnh sát còn buộc tài xế phải ‘trang bị’ thêm xích cho bánh xe cho đỡ cảnh ‘lăn cù’ giữa đường.

Đường xá khi mưa khi tuyết phủ, tai nạn xảy ra như cơm bữa. Bà con mình cần thu tích kinh nghiệm khi bánh xe không chịu vâng lời cái đĩa thắng, khi mặt đường trơn như cháo tràn lan. Rồi bánh xe về mùa đông thường mềm hơn vì khí thoát, nên khó điều khiển theo ý mình. Những bản tin giao thông về tai nạn ‘liên hoàn’ hàng chục xe được lên tin tức hàng ngày. Không gian thì mù mờ sương khói, nên độ nhìn bị giới hạn, thế là tai nạn hoài hoài. Có khi tài xế loạng quạng húc cả vào những chiếc xe cào tuyết lui tới bên đường !

Xe cộ luôn dính liền với mục mua bảo hiểm. Tai nạn là tăng thứ tiền này ngay tức khắc. Bà con đau đầu dài dài. Ấy là chưa kể đến mục đụng xe kéo theo sứt trán u đầu, rồi vai lưng ê ẩm ngày đêm. Nằm bệnh viện phiền toái vô cùng. Tiền cứ mất mà tật cứ mang…Thành ra một số bà con nhà mình rủ nhau bye bye vùng tuyết lạnh phía Bắc, để chuyển bánh về phương Nam, Texas, Louisiana hay Florida, nhất là gồng gánh gia đình cùng ’tây tiến qua miền nắng ấm Cali. Cái mác ‘miệt Bolsa’ với Little Saigon ‘thủ đô tỵ nạn’ càng ngày càng hấp dẫn: về đây nắng ấm tình cũng nồng, cà ghém mắm tôm có đầy đủ, và chúng mình bảo nhau sinh đẻ nhiều, chả mấy chiếm đa số các sắc dân địa phương ! Nếu không tiện xuôi nam, thì ghé bến San Jose miệt Bắc, nơi đây là thủ đô điện tử Hoa Kỳ, tha hồ mà kiếm job thơm.

Cali có gì hấp dẫn ?



Ai ở Cali cũng trả lời giống nhau: Cali dễ ở khó về ! Dễ ở cả bốn mùa. Mùa đông lại càng vui vì nơi này mát như Đà Lạt của Việt Nam. Cali giàu (nếu là một quốc gia độc lập, Cali xếp hạng thứ 8 về sản lượng cả nước, so với toàn thế giới), cho nên chăm sóc dân cư khá kỹ, không để ai bị lạnh cóng khi mùa đông kéo qua !

Phải nói cho rõ: 40 % dân tỵ nạn Việt Nam hiện đang chọn sống tại tiểu bang ‘vàng’ này. Miền Nam thì đông hơn miền Bắc. Hỏi cũng là trả lời: Ban đầu chính phủ Mỹ muốn phân tán bà con ra khắp 50 tiểu bang, nhưng không ai bảo ai, họ lần mò về Cali, trước hết vì khí hậu tốt, ít tuyết rơi, hiếm bão táp hay quá nóng (với khí ẩm) như Florida, Louisiana hoặc Texas, rồi vì công ăn việc làm, sau cùng là vì bên ta có…đồng hương đông đảo, không sợ bị dân địa phương bắt nạt, mà chợ búa thì thứ gì muốn cũng có !

Đó đây thấy nhiều hình ảnh gợi nhớ về Chợ Bến Thành, Chùa Thiên Mụ, Tháp Rùa hồ Hoàn Kiếm. Tiệm ăn thì tràn ngập. Tiệm phở chỗ nào cũng có, tỏa mùi thơm ngào ngạt…Riêng về mặt tôn giáo thì thánh đường và chùa chiền nhan nhản khắp nơi. Tết Nguyên đán, Trung Thu…tha hồ các hội đoàn thay nhau đứng ra tổ chức. Già trẻ cùng vui thú, quên nỗi niềm xa quê nhớ nhà.

Riêng vùng San Jose thì sao ? Các vị ‘trưởng thượng’ khen và nhắc tên quận Cam khá nhiều rồi. Bây giờ mời bà con lên xe chạy xế lên hướng Bắc nhé. Ở miền bắc Cali, dọc theo vùng vịnh San Francisco, đâu đâu cũng có người Việt sinh sống. Nhưng người Việt tập trung đông nhất ở thành phố San Jose - phía nam vùng vịnh này. Đặc biệt tính riêng một thành phố, thì San Jose có hơn 100 ngàn dân cư gốc Việt, hơn bất cứ đô thị nào khác trên đất hải ngọai. Nơi đây đã từng được mệnh danh là ‘thủ phủ tình thương’, ‘thủ đô chính trị’ của bà con mình. San Jose có lợi điểm là khá gần Sacramento, thủ phủ của bang Cali.

Cuộc sống của người Việt ở San Jose khá nhộn nhịp. Và cộng đồng người Việt ở San Jose cũng được thành lập từ rất sớm, với những hoạt động sinh hoạt cộng đồng diễn ra thường xuyên quanh năm, để làm mối giao kết giữa những người Việt xa xứ tại miền Bắc California.

Trung tâm thành phố San Jose vào những ngày tháng 12 thường có chương trình ‘Christmas in the park’. Thành phố sẽ trưng bày những mô hình tiêu biểu cho không khí giáng sinh của châu Âu vào thế kỷ trước, và có máy tạo tuyết giả đang rơi cho trẻ em nô đùa. Người ta còn thích lái xe vòng quanh khu Willow Glen để xem dân giăng đèn giáng sinh trong những ngày này.

Khoảng vào cuối tháng 7 hằng năm, Gilroy thường tổ chức lễ hội Tỏi (Gilroy Garlic Festival). Tỏi vùng Gilroy vừa nhiều và vừa thơm. Mỗi khi mùa tỏi đến, hương tỏi theo gió bay, sáng thức dậy người dân San Jose có thể ngửi được. Dĩ nhiên còn nhiều thứ ‘festitival’ và hội chợ khác nữa được tổ chức quanh năm.

Người Mỹ gọi San Jose là Thung Lũng Điện Tử. vì nơi đây tập trung rất nhiều hãng điện tử nổi tiếng, như Apple, Google, Yahoo...,chưa kể tới trung tâm không gian Nasa, hãng chế vũ khí quốc phòng khét tiếng Lockheed Martin. Hầu như tất cả những sản phẩm điện tử mới nhất trên thế giới hiện nay đều ra đời từ đây. Còn người Việt thì gọi San Jose là Thung Lũng Hoa Vàng, vì đây vừa là nơi có rất nhiều hoa dại màu vàng vào mùa xuân, và cũng nhằm ngụ ý đất lành chim đậu. Sau bao năm rời quê hương và sinh sống ở San Jose, đã không có ít người Việt thành danh nơi đây. Có những người là luật sư, bác sĩ, kỹ sư điện toán, cảnh sát trưởng, và cả nghị viên của chính quyền thành phố. Người Việt ở San Jose thuộc nhiều thành phần, nhiều tầng lớp của xã hội Mỹ. Nhưng đa phần họ là kỹ sư trong các hãng điện tử ở vùng thung lũng Silicon đây.

Chúc mừng cư dân gốc Việt tại vùng San Jose.

Xem chứng ai nấy đều hãnh diện và sung sướng vì được sống trên mảnh đất ‘vàng’ trong lòng tiểu bang ‘vàng’ Cali.

Dĩ nhiên bà con đồng hương muốn trốn vùng tuyết lạnh đông bắc, luôn được ‘welcome’ về góc trời nắng ấm miền tây này. Ta cùng vui sống với nhau. Any time !

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư
 
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 20/1/2018: Đức Thánh Cha gặp gỡ các dân tộc vùng Amazon
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:19 21/01/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Thông thường, khi đến thăm một quốc gia, Đức Giáo Hoàng sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn trước khi có các cuộc gặp gỡ khác. Chương trình tông du của Đức Thánh Cha tại Peru ban đầu cũng được hoạch định như vậy. Tuy nhiên, vào giờ chót đã có những thay đổi lớn.

Sáng thứ Sáu, 19 tháng Giêng, sau thánh lễ sáng tại Tòa Sứ Thần ở thủ đô Lima, lúc 8h30, Đức Thánh Cha đã đáp máy bay đi Puerto Maldonado. Nơi đây, ngài đã có cuộc gặp gỡ với các sắc dân thiểu số vùng Amazon tại sân vận động Mẹ Thiên Chúa, gặp dân chúng địa phương ở Viện Jorge Basadre, thăm trung tâm chăm sóc trẻ em Hogar Principito, và dùng bữa trưa với các đại diện thổ dân miền Amazon ở trung tâm mục vụ Apaktone trước khi lên máy bay trở về Lima để có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn vào ban chiều.

Trong cuộc gặp gỡ tại sân vận động Mẹ Thiên Chúa với khoảng 4,000 người bản địa ở khu vực Amazon của Peru, Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn ở với họ để chia sẻ các thách đố của họ và cùng với họ, tái khẳng định “một quyết tâm bảo vệ sự sống, bảo vệ trái đất và bảo vệ các nền văn hoá.”

Đức Giáo Hoàng nhắc nhớ, và đã phân phát thông điệp Laudato Si của ngài về môi trường, về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và bày tỏ lòng biết ơn đối với những gì họ làm để bảo vệ hành tinh.

“Xin cho phép tôi nói lại một lần nữa,” Đức Giáo Hoàng nói, “Ngợi khen Chúa, lạy Chúa, vì những kỳ công của Ngài nơi các dân tộc Amazon của Ngài và vì mọi sự đa dạng sinh học mà các vùng đất này bảo bọc!”

Tiếp đó, Đức Giáo Hoàng than phiền rằng các dân tộc Amazon có lẽ chưa bao giờ bị đe doạ trên ngay lãnh thổ của họ đến thế như hiện nay. “Tôi cho rằng điều chủ yếu là phải bắt đầu tạo ra các biểu hiện định chế nhằm tôn trọng, công nhận và đối thoại với người dân bản địa, thừa nhận và khôi phục các nền văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống, quyền lợi và linh đạo bản địa”. Đức Giáo Hoàng kêu gọi một cuộc đối thoại giữa các nền văn hoá, trong đó những người đang ở trước mặt ngài sẽ “là những đối tác đối thoại chính,” nhất là khi các dự án lớn ảnh hưởng đến đất đai của họ được đề ra.

“Công nhận và đối thoại sẽ là cách tốt nhất để biến đổi các mối liên hệ mà lịch sử của chúng vốn được đánh dấu bằng sự loại trừ và kỳ thị.”

Đức Giáo Hoàng nói: “Việc bảo vệ trái đất không có mục đích nào khác ngoài việc bảo vệ sự sống.” Ngài thừa nhận một số đau khổ của họ do việc thải các khí hydrocacbon gây ra, đe dọa sự sống và làm ô nhiễm môi trường tự nhiên của chúng ta.

“Theo cùng các đường hướng trên, hiện đang có một cuộc tấn công tàn phá khác đối với sự sống có liên hệ đến việc ô nhiễm môi trường, một sự kiện rất được việc khai mỏ trái phép ưa thích. Tôi muốn nói tới nạn buôn người: lao động nô lệ và lạm dụng tình dục.

“Bạo lực chống các thiếu niên và phụ nữ hiện đã thấu tới trời. Tôi luôn buồn khổ trước số phận của những người là nạn nhân của nhiều loại buôn người khác nhau. Tôi mong ước rằng tất cả chúng ta nghe được câu hỏi của Thiên Chúa, 'Em trai của ngươi đâu?' (St 4: 9). Anh hay chị em của các ngươi đang bị làm nô lệ ở đâu?”

Đức Giáo Hoàng khẩn khoản: “Chúng ta đừng nhìn đi chỗ khác. Hiện có sự đồng lõa lớn lao hơn chúng ta tưởng. Vấn đề này liên quan đến mọi người! “

Đức Thánh Cha đặc biệt nghĩ đến những người thường được gọi là “Các Người Bản Địa Tự Ý Cô Lập”, Đức Giáo Hoàng nói rằng mối quan tâm nói trên khiến chúng ta, trong căn bản, chọn giải pháp bảo vệ sự sống của những người ít khả năng tự vệ nhất.

“Chúng ta biết rằng họ là những người dễ bị thương tổn nhất. Cách sống sơ khai của họ khiến họ bị cô lập ngay cả trong các nhóm sắc tộc của chính họ; họ đi ẩn náu trong những khu rừng gần như không ai có thể tới để được sống một cách tự do. Hãy tiếp tục bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong các anh chị em của chúng ta. Sự có mặt của họ nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể sử dụng các hàng hoá vốn nhằm dành cho mọi người do lòng tham lam duy tiêu thụ ra lệnh. Các giới hạn phải được đặt ra để có thể giúp bảo vệ chúng ta khỏi mọi kế hoạch phá huỷ môi trường ồ ạt, một môi trường vốn làm chúng ta là chính chúng ta hiện nay.

Đức Giáo Hoàng nói, việc công nhận những người này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không phải là chủ nhân ông tuyệt đối của sáng thế. “Chúng ta cần khẩn trương đánh giá cao sự đóng góp thiết yếu mà họ mang lại cho xã hội như một toàn thể, và không rút gọn các nền văn hoá của họ vào hình ảnh lý tưởng hoá về một trạng thái tự nhiên, huống hồ là một loại bảo tàng viện về lối sống xa xưa.”

Vị Giáo Hoàng Dòng Tên nhấn mạnh: viễn kiến vũ trụ của họ và đức khôn ngoan của họ có nhiều điều để dạy dỗ những người trong chúng ta vốn không phải là thành phần trong nền văn hóa của họ.

“Văn hoá của các dân tộc chúng ta là dấu hiệu chỉ sự sống. Amazon không chỉ là một khu bảo tồn đa sinh học mà còn là một khu bảo tồn văn hoá cần phải được duy trì khi đối mặt với những hình thức thực dân mới. Gia đình là và luôn luôn vốn là một định chế xã hội góp phần nhiều nhất vào việc giữ cho nền văn hoá của chúng ta sống động. Trong các thời điểm khủng hoảng của quá khứ, khi đối mặt với nhiều hình thức đế quốc chủ nghĩa, các gia đình của các dân tộc nguyên thủy đã là những người bảo vệ sự sống tốt nhất.”

Đức Giáo Hoàng cũng kêu gọi mọi người hiện diện lắng nghe người cao niên; ngài lưu ý rằng họ có một sự khôn ngoan giúp họ tiếp xúc được với Đấng siêu việt và giúp họ thấy điều gì là thiết yếu trong đời sống.

Đức Giáo Hoàng nói rằng việc giáo dục giúp chúng ta xây dựng các cây cầu và tạo ra nền văn hoá gặp gỡ. “Đối với các dân tộc bản địa, đi học và giáo dục phải là một ưu tiên và cam kết của nhà nước: một cam kết toàn bộ và có bản vị văn hóa biết thừa nhận, tôn trọng và hoà nhập đức khôn ngoan của tổ tiên như là một kho báu thuộc về cả quốc gia.”

Tiếp theo đó, Đức Giáo Hoàng yêu cầu các anh em giám mục của ngài tiếp tục, như họ đang làm ở những nơi xa xôi nhất trong rừng, khuyến khích việc giáo dục liên văn hoá và song ngữ trong các trường học, trong các định chế đào tạo giáo viên, và trong các đại học. Ngài bày tỏ sự đánh giá cao của ngài đối với các sáng kiến mà Giáo hội Amazon ở Peru từng giúp thi hành nhằm ủng hộ các dân tộc bản địa.

Ngài nói “biết bao nhiêu nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, đã hiến đời mình cho các dân tộc của anh chị em và bảo vệ nền văn hóa của anh chị em!”, và nhấn mạnh rằng họ đã làm như thế vì Tin Mừng. “Chính Chúa Kitô đã nhận lấy xác thịt từ một nền văn hoá, nền văn hoá Do Thái, và từ xác thịt này, Người đã tự ban Người cho ta làm nguồn canh tân cho mọi dân tộc, theo cách mà mỗi người, trong bản sắc sâu xa nhất của mình, cảm thấy mình được khẳng định nơi Người. Đừng nhường bước cho các mưu toan bứng gốc đức tin Công Giáo khỏi các dân tộc của anh chị em.”

Đức Giáo Hoàng nói rằng mỗi nền văn hoá và mỗi thế giới quan từng tiếp nhận Tin Mừng đều làm phong phú cho Giáo Hội bằng cách biểu lộ một khía cạnh mới mẻ của gương mặt Chúa Kitô.

“Giáo hội không xa lạ với những vấn đề và cuộc sống của anh chị em, Giáo Hội không muốn xa cách lối sống và cách tổ chức của anh chị em. Chúng ta cần các dân tộc bản địa để lên khuôn cho nền văn hóa của các giáo hội địa phương ở Amazon.” Đức Giáo Hoàng khuyến khích những người hiện diện giúp các vị giám mục của họ, và các nhà truyền giáo nam nữ của họ, nên một với các ngài, và bằng cách này,”nhờ cuộc đối thoại với mọi người, anh chị em hãy lên khuôn một Giáo hội có khuôn mặt Amazon, một Giáo hội có khuôn mặt bản địa.” Trong tinh thần này, Đức Giáo Hoàng nói ngài đã triệu tập một Thượng hội đồng cho Amazon vào năm 2019.

“Tôi tin tưởng vào khả năng linh động của các dân tộc anh chị em và khả năng ứng phó của anh chị em trước các thời điểm khó khăn mà anh chị em đang phải sống. Anh chị em đã cho thấy điều này trong những khoảnh khắc quan yếu khác nhau của lịch sử mình, với những đóng góp của anh chị em và viễn kiến dị biệt hóa về các mối liên hệ giữa con người, với môi trường tự nhiên và cách sống đức tin của anh chị em.”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô kết luận, bằng cách nói rằng ngài sẽ cầu nguyện cho họ, cho lãnh thổ vốn được Thiên Chúa chúc phúc này, và nhắc họ cầu nguyện cho ngài.
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 21/1/2018: Tâm tình của Đức Thánh Cha với các linh mục, tu sĩ nam nữ Peru tại Trujillo
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:23 21/01/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Như chúng tôi đã tường thuật, lúc 7h40 sáng thứ Bẩy 20 tháng Giêng, Ðức Thánh Cha đã bay đến thành phố thành phố Trujillo cách Lima 490 cây số về hướng bắc để cử hành thánh lễ lúc 10h tại quảng trường Huanchaco cạnh bờ biển.

Ban chiều, lúc 3h, ngài viếng nhà thờ chính tòa địa phương và gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh thuộc giáo tỉnh miền bắc Peru tại Chủng viện thánh Carlo và Marcelo.

Ngày 15 tháng 4 năm 1577, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô thứ 13 ra sắc lệnh thành lập giáo phận Trujillo và bổ nhiệm Đức Cha Alonso Guzmán y Talavera làm giám mục tiên khởi. Giáo phận Trujillo được Đức Thánh Cha Piô thứ 12 nâng lên hàng tổng giáo phận vào ngày 23 tháng 5 năm 1943.

Trong tổng số 1,535,800 dân, có 1,229,855 người Công Giáo, chiếm tỉ lệ 80.1%. Tổng giáo phận có 74 giáo xứ dưới quyền cai quản của Đức Tổng Giám Mục Héctor Miguel Cabrejos Vidarte, dòng anh em hèn mọn, cùng với 133 linh mục, trong đó có 73 linh mục triều và 60 linh mục dòng. Bên cạnh đó, còn có một phó tế vĩnh viễn, 129 nam tu sĩ không có chức linh mục và 188 nữ tu.

Trong diễn từ với các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến:

Chào buổi trưa!

Tôi biết ơn những lời Đức Tổng Giám Mục José Antonio Eguren Anselmi của tổng giáo phận Piura chào mừng tôi thay mặt cho tất cả những anh chị em hiện diện nơi đây.

Gặp gỡ với anh chị em, tìm hiểu anh chị em, lắng nghe anh chị em và chia sẻ tình yêu của chúng ta đối với Chúa và đối với sứ mệnh mà Ngài đã ủy thác chúng ta là điều rất quan trọng đối với tôi. Tôi biết anh chị em đã phải nỗ lực rất lớn để có thể hiện diện nơi đây. Cảm ơn anh chị em!

Chủng viện đang chào đón chúng ta là một trong những chủng viện đầu tiên được thành lập ở Châu Mỹ La Tinh để đào tạo những thế hệ các nhà truyền giáo tương lai. Hiện diện cùng nhau tại nơi này làm cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang ở trong một trong những “cái nôi” đã sản sinh ra cơ man các nhà truyền giáo. Tôi cũng không thể quên rằng Thánh Turibius thành Mogrovejo, là quan thầy của các giám mục châu Mỹ Latinh, đã chết nơi vùng đất này, trong lúc đang hoạt động truyền giáo. Tất cả những điều này mời gọi chúng ta hướng nhìn đến căn cội của mình, và đến những gì qua dòng thời gian và lịch sử cho phép chúng ta phát triển và sinh hoa trái. Ơn gọi của chúng ta sẽ luôn luôn có 2 chiều kích: căn cội dưới thế và tâm hồn trên trời. Khi một trong hai điều này bị đánh mất, một cái gì đó bắt đầu trở nên sai lầm và cuộc sống của chúng ta dần dần héo tàn (xem Lc 13: 6-9).

Tôi muốn chỉ ra rằng đức tin của chúng ta, ơn gọi của chúng ta, là một ký ức, một chiều kích “Đệ Nhị Luật” của cuộc sống. Là một ký ức, bởi vì ơn gọi của chúng ta nhìn nhận rằng chẳng có điều nào dù là sự sống, hay đức tin, hay Giáo hội bắt nguồn từ sự chào đời của bất kỳ một ai trong chúng ta. Ký ức nhìn đến quá khứ để khám phá ra nguồn mạch đã từng nuôi dưỡng con tim của các tông đồ qua nhiều thế kỷ, và do đó nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của dân Người. Chúng ta nhớ đến lời hứa Chúa ban cho tổ tiên của chúng ta, theo đó, nhờ sự hiện diện liên tục của Ngài giữa chúng ta, Ngài là căn nguyên của niềm vui khiến chúng ta mừng hát rằng: “Chúa đã làm cho chúng ta những điều vĩ đại; khiến chúng ta mừng rỡ hân hoan” (Tv 125: 3).

Tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số nhân đức của ký ức này.

Một tự nhận thức đầy hân hoan

Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe thường được đọc là một điểm then chốt của ơn gọi, trong đó chúng ta tập trung vào cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Giêsu. Tôi muốn quay trở lại trước đó và có một cái nhìn về Thánh Gioan Baotixita. Thánh nhân đang ở với hai môn đệ của mình, thì thấy Chúa Giêsu đi qua, Thánh nhân đã bảo họ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Khi nghe những lời này, họ đã bỏ Gioan và theo Chúa Giêsu (xem câu 37). Điều này hơi đáng ngạc nhiên vì họ đã ở với Gioan, họ biết rằng ông là một hiền nhân, và như Chúa Giêsu nói, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông (Mt 11:11), nhưng ông không phải là Đấng sẽ đến. Gioan đang đợi người cao trọng hơn mình. Ông hiểu rõ rằng ông không phải là Đấng Mết-si-a, mà chỉ đơn giản là người loan báo về sự xuất hiện của Đấng ấy. Gioan ghi nhớ; ông ý thức được lời hứa và vị thế của riêng mình trong lịch sử.

Gioan hiện thân cho nhận thức của một đệ biết rõ rằng mình không phải là Đấng Mê-si, và sẽ không bao giờ là Đấng ấy, nhưng chỉ là một người được mời gọi để chỉ ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của dân Ngài. Như những người nam nữ thánh hiến, chúng ta không được kêu gọi thay thế Chúa qua các công trình của chúng ta, qua sứ vụ của chúng ta, hoặc cơ man các hoạt động của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta được yêu cầu phải làm là làm việc với Chúa, sát cánh với Ngài, và không bao giờ được quên rằng chúng ta không thay thế cho Ngài. Điều này không làm cho chúng ta “ươn lười” trong sứ vụ phúc âm hoá; đúng hơn, nó thúc đẩy chúng ta làm việc với tất cả sự siêng năng hơn, và luôn ý thức rằng chúng ta là môn đệ của cùng một vị Thầy. Một môn đệ biết rằng mình đang ở đó, bây giờ và mãi mãi, để hỗ trợ cho Thầy mình. Đó là nguồn mạch vui mừng của chúng ta.

Thật tốt khi biết rằng chúng ta không phải là Đấng Mết-si-a! Điều đó giải phóng chúng ta khỏi tư duy cho rằng chúng ta quá quan trọng hoặc quá bận rộn (ở một số nơi, không phải là hiếm đâu, người ta nói: “Không, đừng đến giáo xứ đó vì cha xứ luôn rất bận!”). Thánh Gioan Tẩy Giả biết rằng nhiệm vụ của ngài là chỉ đường, là bắt đầu, là mở ra không gian, để tuyên bố rằng “một người khác” là người mang Chúa Thánh Linh đến. Trở nên một người biết ghi nhớ giải phóng chúng ta khỏi cám dỗ nghĩ rằng chúng ta là những Đấng Mết-si-a.

Chúng ta có thể chiến đấu với cám dỗ này bằng nhiều cách, cả bằng những tiếng cười. Vâng chính thế, học cách tự cười nhạo bản thân mình đem lại cho chúng ta khả năng tinh thần để đứng trước Chúa với những hạn chế của chúng ta, những lỗi lầm, tội lỗi của chúng ta, cũng như các thành công của chúng ta, cùng với niềm vui biết rằng Người đang ở bên chúng ta. Một trắc nghiệm tinh thần tốt là hãy tự hỏi mình xem liệu chúng ta có thể cười nhạo chính mình hay không. Tiếng cười cứu chúng ta khỏi “thuyết tự hấp thu Promethean neo-Pelagianism của những người cuối cùng chỉ tin tưởng vào năng lực của mình và cảm thấy mình ưu việt hơn những người khác” [1]. Anh chị em, hãy cười vang trong cộng đồng, chứ đừng cười vào mặt cộng đồng hay những người khác! Chúng ta hãy cảnh giác với những người quá quan trọng đến nỗi họ đã quên không biết làm sao mà cười trong cuộc sống của họ.

Thời điểm của lời mời gọi

Thánh Gioan Tông Đồ Thánh Sử đã đề cập đến trong Tin Mừng của ngài thời điểm đã thay đổi cuộc đời ngài: “khoảng chừng giờ thứ mười” (Ga 1:39). Một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của chúng ta, nó xác lập cái gì là “trước đó”, và cái gì là “sau đó”. Thật tốt là chúng ta luôn luôn ghi nhớ ngày, giờ đặc biệt này khi mỗi người chúng ta nhận ra rằng Chúa đã mong đợi điều gì đó nhiều hơn nơi chúng ta. Đó là ký ức về giờ khắc mà chúng ta đã rung động trước ánh mắt của Ngài.

Khi chúng ta quên giờ khắc đó, chúng ta quên nguồn gốc của mình, căn cội của chúng ta; và khi mất đi những tọa độ cơ bản này, chúng ta sẽ mất đi hình ảnh về những phần quý giá nhất trong đời sống của chúng ta như những người tận hiến: đó là ánh mắt của Chúa. Có lẽ anh chị em không thích nơi mà Chúa đã tìm thấy anh chị em, có lẽ đó không phải là một tình huống lý tưởng, hoặc “lẽ ra nó phải coi được hơn một chút”. Nhưng đó là nơi Chúa đã tìm thấy anh chị em và chữa lành những vết thương của anh chị em. Mỗi người trong chúng ta đều biết là ở đâu và khi nào: có thể đó là thời điểm xảy ra những tình huống phức tạp, hay những tình huống đau đớn; Vâng, nhưng chính ở đó Thiên Chúa của Sự Sống đã gặp anh chị em và làm cho anh chị em trở thành những nhân chứng cho Sự Sống của Người, biến anh chị em nên một phần trong sứ vụ của Người, và kết hợp với Người, để nên một sự vuốt ve của Thiên Chúa cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ kỹ rằng ơn gọi của chúng ta là một ơn gọi yêu thương, để đáp lại tình yêu và phục vụ. Nếu Chúa yêu anh chị em và chọn anh chị em, đó không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương anh em! (xem Đệ Nhị Luật 7: 7-8). Tình yêu của Chúa là một tình yêu nội tại, một tình yêu thương xót thúc đẩy chúng ta tận những chiều kích sâu thẳm, để chúng ta ra đi và phục vụ những người khác như Chúa Giêsu đã làm.

Tôi muốn nhấn mạnh một khía cạnh mà tôi cho là quan trọng. Nhiều người trong chúng ta, khi bước vào chủng viện hoặc một nơi đào tạo, đã được hun đúc bởi đức tin của gia đình và những người lân cận. Đây là cách chúng ta thực hiện các bước đi đầu tiên của chúng ta, đó là thường xuyên được nâng đỡ bởi những thể hiện của lòng đạo đức bình dân dưới những hình thức tinh tế nhất và có nguồn gốc sâu xa nơi những người dân đơn sơ và trung tín của Thiên Chúa ở Peru. Dân chúng đã thể hiện một lòng yêu mến bao la dành cho Chúa Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, các vị Thánh và các Chân Phước của anh chị em, trong cơ man những việc sùng kính mà tôi không dám nêu ra ở đây vì sợ bỏ sót một vài hình thức trong số đó. Trong những đền thờ của họ, “nhiều người hành hương đưa ra những quyết định có tính chất định đoạt cuộc đời họ. Các bức tường [của những đền thờ đó] chằng chịt biết bao những câu chuyện mà hàng triệu người đã kể về sự hoán cải, sự tha thứ và những ơn lành đã nhận được”. [2] Đối với nhiều người trong anh chị em, câu chuyện về ơn gọi của anh chị em cũng có thể được viết trên những bức tường đó. Tôi khuyên anh chị em không nên quên, hay xem thường đức tin kiên vững và đơn sơ của người dân anh chị em. Hãy chào đón, đồng hành và kích thích những cuộc gặp gỡ của họ với Chúa. Đừng trở thành “các chuyên gia về đàng thiêng liêng” bằng cách quên đi những người dân của anh chị em, từ trong số họ, Chúa đã chọn anh chị em. Đừng đánh mất ký ức của anh chị em và hãy tôn trọng những người đã từng dạy anh chị em biết cách cầu nguyện.

Nhớ lại khoảnh khắc chúng ta được gọi, vui mừng trước ký ức Chúa Kitô bước vào đời ta như thế nào, sẽ giúp chúng ta thốt lên lời cầu nguyện tuyệt vời của Thánh Francisco Solano, nhà truyền giáo vĩ đại và là bạn của người nghèo: “Lạy Chúa Giêsu nhân lành, Đấng Cứu Chuộc con và anh chị em con! Có cái gì con có đây, mà không phải là Chúa cho con? Có điều chi con biết, mà không phải là Chúa dạy cho con?”

Bằng cách này, một tu sĩ, một linh mục, một người nam nữ tận hiến là một người biết ghi nhớ, vui mừng và biết ơn: đó là ba điều chúng ta cần phải thủ đắc cho được và phải giữ kỹ như là ‘vũ khí’ chống lại mọi hình thức ơn gọi giả tạo. Ý thức biết ơn làm cho trái tim chúng ta lớn lên và truyền cảm hứng cho chúng ta phục vụ. Nếu không có lòng biết ơn, chúng ta có thể là những người giải quyết những vấn đề thiêng liêng một cách hiệu quả, nhưng chúng ta sẽ thiếu sự xức dầu của Thánh Linh để trở thành những tôi tớ của anh chị em chúng ta, đặc biệt là của những người cần chúng ta nhất. Dân trung tín của Thiên Chúa có một khướu giác giúp họ phân biệt được đâu là một công chức thiêng liêng và đâu là một tôi tớ đáng kính. Họ có thể phân biệt được người tử tế và kẻ vô tâm. Dân Thiên Chúa là bệnh nhân, nhưng họ biết ai phục vụ và chữa lành những vết thương của họ bằng dầu vui mừng và lòng biết ơn.

Niềm vui lây lan

Thánh Anrê là một trong những môn đồ của Thánh Gioan Tẩy Giả, người theo Chúa Giêsu ngày hôm đó. Sau khi dành thời gian với Chúa Giêsu và thấy nơi Người sống, anh trở về nhà anh mình là Si-môn Phêrô, và nói với anh mình: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mết-si-a” (Ga 1:41). Đó là tin tốt nhất anh ta có thể đưa đến cho anh mình, và tin ấy đưa người anh đến với Chúa Giêsu. Đức tin nơi Chúa Giêsu có tính lây lan; nó không thể bị hạn chế hoặc giữ kín bên trong. Ở đây, chúng ta thấy những chứng tá trở nên có hiệu quả như thế nào: các môn đồ mới được gọi sẽ tiếp tục thu hút những người khác bằng chứng tá đức tin của họ, như Chúa Giêsu, trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã gọi chúng ta qua những người khác. Sứ vụ này bùng lên một cách tự phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Thánh Anrê bắt đầu sứ vụ tông đồ của mình với những ai gần gũi với mình nhất, là anh trai Simon của mình, gần như một cách tự nhiên, bằng niềm vui rạng rỡ. Niềm vui là dấu hiệu chắc chắn nhất là chúng ta đã “khám phá ra” Đấng Mết-si-a. Niềm vui luôn hiện diện trong lòng các tông đồ, và chúng ta thấy niềm vui ấy nơi sự nhiệt thành khi Anrê nói với anh mình: “Chúng tôi đã tìm thấy Người!” Vì “niềm vui của Phúc Âm ngập tràn tâm hồn và cuộc sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận lời đề nghị cứu rỗi của Người thì được thoát khỏi tội lỗi, nỗi buồn, sự trống rỗng bên trong và sự cô đơn. Với Chúa Kitô, niềm vui thường xuyên được tái sinh” [3].

Niềm vui này mở lòng chúng ta ra cho tha nhân; đó là một niềm vui phải được chia sẻ. Trong một thế giới bị phân mảnh như thế giới chúng ta đang sống, một thế giới có thể khiến chúng ta rút lui, chúng ta được thách thức để trở thành những nhà xây dựng và các vị tiên tri của cộng đồng. Vì không ai được cứu riêng mình mà thôi. Tôi muốn nói rõ ràng về điều này. Sự phân mảnh hoặc cô lập không phải là những điều chỉ xảy ra “ở bên ngoài”, không phải chỉ là vấn đề của “thế gian”. Anh chị em ơi, những chia rẽ, chiến tranh, và sự cô lập được tìm thấy ngay trong những cộng đoàn chúng ta, và gây hại biết chừng nào! Chúa Giêsu sai chúng ta đi để xây dựng tình hiệp thông và sự hiệp nhất, nhưng thường thì dường như chúng ta thực thi điều này bằng cách phô bày cho thế gian thấy sự chia rẽ của chúng ta, và tệ hơn nữa, là cố gắng làm cho nhau sai lầm. Chúng ta được mời gọi trở thành những người xây dựng sự hiệp thông và hiệp nhất, nhưng điều này không có nghĩa là nghĩ rằng mọi người đều giống nhau hoặc phải hành động y chang như nhau. Nó có nghĩa là phân định mỗi người phải cống hiến những gì, trong khi tôn trọng sự khác biệt của họ, và thừa nhận có những đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội, trong nhận thức rằng dù mỗi người chúng ta đóng góp những gì mình có, chúng ta vẫn phải cần đến nhau. Chỉ có Chúa mới có đầy đủ các ân sủng; chỉ có Chúa mới là Đấng Mết-si-a. Ngài muốn ban phát những ân sủng của mình theo cách mà chúng ta có thể cho đi những gì chúng ta có, trong khi được phong phú hóa bằng những thứ của người khác. Chúng ta phải cảnh giác trước sự cám dỗ là “đứa con duy nhất”, muốn mọi thứ cho riêng mình vì không có ai để chia sẻ với nó. Tôi xin những người trong anh chị em là những người có thẩm quyền: xin đừng trở thành người tự tham chiếu về chính mình. Hãy cố gắng chăm sóc anh chị em mình; cố gắng giữ cho họ được hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc là điều lây lan. Đừng rơi vào bẫy rập của một kẻ có quyền chạy theo chủ nghĩa độc tài và quên rằng sứ vụ của mình chủ yếu là một sứ vụ phục vụ.

Thưa anh chị em, tôi cảm ơn anh chị em một lần nữa. Cầu xin cho ký ức “Đệ Nhị Luật” này làm cho chúng ta vui vẻ hơn với lòng biết ơn được trở thành những người phục vụ cho tình hiệp nhất giữa dân ta.

Nguyện xin Chúa ban phép lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ phù hộ anh chị em. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.

[1] x. Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 94
[2] x. Phiên khoáng đại lần thứ 5 của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribê, Văn kiện Aparecida, ngày 29 tháng 6 năm 2007, trang 260.
[3] Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 1
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 21/1/2018: Đức Thánh Cha chủ sự Phụng Vụ kính Đức Mẹ hải cảng Otuzco
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
08:25 21/01/2018
Sáng thứ Bẩy, 20 tháng Giêng, lúc 7h40 Ðức Thánh Cha đã đáp máy bay từ thủ đô Lima đến thành phố Trujillo cách đó 490 cây số về hướng bắc để cử hành thánh lễ lúc 10h tại quảng trường Huanchaco cạnh bờ biển.

Ban chiều, lúc 3h, ngài viếng nhà thờ chính tòa địa phương và gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh thuộc giáo tỉnh miền bắc Peru tại Chủng viện thánh Carlo và Marcelo vào lúc 3h30.

Hơn một giờ sau đó, lúc 4h45, Ðức Thánh Cha chủ sự buổi cử hành phụng vụ kính Ðức Mẹ Hải Cảng ở quảng trường quân đội.

Trong bài giảng tại đây, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Tôi xin cảm tạ Đức Cha Héctor Miguel vì những lời chúc mừng của ngài nhân danh toàn thể dân Chúa hành hương trên những miền đất này.

Trong quảng trường xinh đẹp và lịch sử này của Trujillo, nơi từng đánh thức những giấc mơ tự do cho tất cả người Peru, hôm nay chúng ta tụ họp để gặp “Mẹ thân yêu của Otuzco”. Tôi biết rằng nhiều người trong số anh chị em đã phải đi một quãng đường dài để có mặt ngày hôm nay, tụ tập dưới ánh mắt của Mẹ. Quảng trường này đã trở thành một ngôi đền lộ thiên, nơi tất cả chúng ta muốn để cho Mẹ nhìn chúng ta bằng ánh mắt từ mẫu và dịu dàng. Mẹ là một người mẹ biết rõ con tim của những đứa con Peru của mình từ miền bắc đất nước và từ rất nhiều nơi khác; Mẹ đã nhìn thấy nước mắt của anh chị em, tiếng cười của anh chị em, và những ước vọng của anh chị em. Trong quảng trường này, chúng ta muốn vinh danh ký ức của một dân tộc biết rằng Đức Maria là một người Mẹ không từ bỏ con cái mình.

“Ngôi Nhà” này được trang trí theo một phong cách lễ hội đặc biệt. Chúng ta được bao quanh bởi hình ảnh các linh địa khắp miền này. Tôi nghiêm cẩn kính chào Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco, cùng với Thánh Giá Rất Thánh Chalpón miền Chiclayo, Chúa Phù Hộ các Tù Nhân miền Ayabaca, Đức Mẹ Giàu Lòng Xót Thương miền Paita, Chúa Giêsu Hài Đồng Ban Phép Lạ miền Eten, Đức Mẹ Sầu Bi miền Cajamarca, Đức Bà Lên Trời miền Cutervo, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội miền Chota, Đức Bà Đầy Ơn Phúc miền Huamachuco, Thánh Turibius thành Mogrovejo ở miền Tayabamba (Huamachuco), Đức Nữ Đồng Trinh miền Chachapoyas, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội miền Usquil, Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu miền Huanchoco, và di hài các Thánh Tử Đạo Dòng Anh Em Hèn Mọn miền Chimbote.

Mỗi cộng đồng, mỗi góc nhỏ bé của vùng đất này, đều được đi kèm với gương mặt của một vị thánh, và với tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Người. Thật thế, bất cứ nơi nào có một cộng đồng, bất cứ nơi nào có cuộc sống và những con tim mong muốn tìm được những lý do để hy vọng, để hát múa và nhảy mừng, để có một cuộc sống tốt đẹp ... thì nơi đó có Chúa, nơi đó chúng ta tìm thấy Mẹ của Người, và ở đó cũng có gương của tất cả những vị thánh giúp chúng ta vui mừng trong hy vọng.

Cùng với anh chị em, tôi xin tán tụng Chúa vì Ngài đã ghé mắt nhìn chúng ta. Ngài tìm cách tốt nhất để lôi kéo đến gần Ngài mỗi người để họ có thể đón nhận Ngài. Đó là nguồn gốc của cơ man những lời cầu và danh xưng đa dạng của Ngài. Những danh xưng này thể hiện mong muốn của Thiên Chúa được gần gũi mỗi con tim, để ngôn ngữ tình yêu của Thiên Chúa luôn được nói bằng tiếng địa phương; không có cách nào khác để làm điều đó, và hơn thế nữa, điều ấy linh hứng cho hy vọng khi thấy Đức Mẹ dùng những đặc điểm của con cái mình, cách ăn mặc và phương ngữ của họ, để làm cho họ cùng chia sẻ trong phúc lành của Mẹ. Đức Maria sẽ luôn là một người Mẹ đa sắc tộc, bởi vì trong trái tim của Mẹ, tất cả các chủng tộc đều tìm thấy một chỗ cho mình, vì tình yêu tìm kiếm mọi cách để có thể yêu và được yêu. Tất cả những hình ảnh này nhắc nhở chúng ta về tình yêu từ ái mà với tình yêu đó Thiên Chúa muốn gần gũi với mọi làng mạc và mọi gia đình, với anh, với chị, với em, với tôi, và tất cả mọi người.

Tôi biết tình yêu mà anh chị em dành cho Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco. Hôm nay, cùng với các anh chị em, tôi muốn tuyên bố rằng Đức Mẹ Cửa Khẩu là “Mẹ thương xót và hy vọng”. Đức Mẹ, là Đấng trải qua nhiều thế kỷ đã cho thấy tình yêu của Mẹ dành cho những đứa con của mảnh đất này khi Mẹ được đặt tại một cửa ngõ, Mẹ đã bênh vực và bảo vệ họ trước những mối đe dọa, và đánh thức tình yêu của tất cả người Peru cả cho đến thời đại hôm nay của chúng ta.

Đức Maria tiếp tục bảo vệ chúng ta và chỉ ra cánh cổng mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến cuộc sống đích thực, đến Sự Sống không qua đi. Mẹ đi bên cạnh mỗi một người con của Mẹ, để dẫn họ về nhà. Mẹ đồng hành cùng chúng ta đến Cửa đem lại Sự Sống, vì Chúa Giêsu không muốn ai đứng ở ngoài, trong giá lạnh. Như thế, Mẹ tháp tùng “khát vọng của đông đảo những người muốn quay trở lại nhà Cha, Đấng đang chờ đợi sự trở lại của họ” [1], nhưng thường thì họ không biết phải làm sao. Như Thánh Bernard đã nói: “Bạn cảm thấy xa đất liền, bị nhận chìm bởi những đợt sóng của thế gian này, giữa chập chùng bão tố: hãy nhìn lên Ngôi sao và kêu khẩn cùng Đức Maria” [2]. Mẹ sẽ cho chúng ta thấy đường về nhà. Mẹ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, là Cổng Thương xót.

Năm 2015, chúng ta đã có niềm vui cử mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trong năm đó, tôi mời gọi tất cả các tín hữu đi qua Cửa Lòng Thương Xót, “qua đó bất kỳ ai bước vào sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, Đấng an ủi, tha thứ và gieo niềm hy vọng” [3]. Tôi muốn lặp lại với anh chị em lúc này đây cùng một niềm hy vọng ấy: “Tôi mong muốn xiết bao những năm tới sẽ được dâng lên cho lòng thương xót, để chúng ta có thể đi ra đến với mỗi người nam nữ, mang đến cho họ sự thiện hảo và dịu dàng của Thiên Chúa” [4] Tôi ước ao biết bao là mảnh đất này, nơi luôn gắn bó với Mẹ thương xót và hy vọng, có thể được dư dật những sự tốt lành của Thiên Chúa và tình yêu dịu dàng của Người và mang tình yêu ấy đi khắp nơi. Anh chị em thân mến, không có thuốc men nào tốt hơn có thể chữa nhiều vết thương cho bằng một con tim đã biết đến lòng thương xót, một con tim từ bi trước những nỗi buồn và bất hạnh, một trái tim đầy thương xót trước những sai lầm của con người và ước vọng muốn thay đổi của họ, mà không biết bắt đầu từ đâu.

Lòng thương xót đang hoạt động, vì “chúng ta đã biết rằng Thiên Chúa cúi xuống vì chúng ta (xem Hôsê 11: 4), để chúng ta có thể bắt chước Người mà cúi xuống anh chị em mình”, [5] trước hết là cho những ai đang đau khổ nhất. Và giống như Đức Maria, chú tâm đến những ai thiếu rượu mừng, như đã xảy ra trong tiệc cưới Cana.

Hướng nhìn lên Đức Maria, tôi không muốn kết thúc ở đây mà không yêu cầu tất cả chúng ta hãy suy nghĩ về những bà mẹ và những bà nội, bà ngoại của đất nước này; họ là động lực thực sự cho cuộc sống và các gia đình Peru. Peru sẽ như thế nào, nếu không có những bà mẹ và những người bà! Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu không có họ! Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm thấy được sự trân trọng và lòng biết ơn đối với những người phụ nữ, những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là một pháo đài cho cuộc sống tại các thành phố của chúng ta. Gần như luôn im lặng, họ đưa cuộc sống tiến về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn chứng tá của các vị. Trân quý và tri ân. Nhưng khi suy nghĩ về những người mẹ và những người bà của chúng ta, tôi muốn mời anh chị em chống lại tai ương đang ảnh hưởng đến lục địa Mỹ Châu của chúng ta: nhiều trường hợp các phụ nữ đã bị giết. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ im lặng phía sau rất nhiều những bức tường. Tôi yêu cầu anh chị em chiến đấu chống lại nguồn đau khổ này bằng cách kêu gọi xây dựng pháp luật và một nền văn hoá phản đối mọi hình thức bạo lực.

Anh chị em thân mến, Đức Mẹ Cửa Khẩu, Mẹ Thương Xót và Niềm Hy vọng, chỉ cho chúng ta thấy con đường và chỉ ra cách phòng vệ tốt nhất chống lại cái ác của sự dửng dưng và vô cảm. Mẹ đưa chúng ta đến với Con Mẹ và khuyến khích chúng ta đề cao và truyền bá “một nền văn hoá thương xót dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ với tha nhân, một nền văn hoá mà không ai nhìn vào người khác với sự thờ ơ hoặc quay lưng đi trước những đau khổ của anh chị em mình” . [6]

[1] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[2] Bài Giảng sau Kinh Truyền Tin 17: PL 183, 70.
[3] Tông Chiếu Misericordiae Vultus (Khuôn Mặt Xót Thương) (ngày 11 tháng 4 năm 2015), số 3.
[4] thượng dẫn., 5.
[5] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[6] thượng dẫn., 20.